Nghi thức dâng hương (thắp hương) là tập quán mà hầu như mọi người dân châu Á, bất kể lứa tuổi nào và sống ở nơi đâu đều biết đến. Nén hương đã đi vào đời sống văn hóa, tín ngưỡng của người Việt Nam như một nét đẹp truyền thống, gần gũi và thiêng liêng. Dù không mê tín dị đoan, trong tâm thức người dân châu Á đều tin rằng, nén hương khi đốt lên, cũng như một nhịp cầu vô hình nối kết hai thế giới hữu hình và vô hình với nhau. Tuy nhiên, về mặt tâm linh, có người vẫn còn hiểu một cách mơ hồ, nhất là về ý nghĩa dâng hương theo truyền thống của tổ tiên. Thậm chí ngày nay, có người còn không biết vì sao trong nhà mình có một bàn thờ với những pho tượng, hình ảnh Chư Phật Bồ Tát, thần thánh hoặc tổ tiên.
Chuyện thắp hương trên bàn thờ tổ tiên là một nét đẹp văn hóa truyền thống không thể thiếu trong các dịp giỗ chạp, lễ, Tết. Ngày cuối năm đi mua sắm các thứ chuẩn bị cho Tết, không ai không mua vài nén hương về thắp cho ông bà, tổ tiên mình. Nén hương được thắp lên thì mọi người cảm thấy ấm lòng. Nén hương lúc này không còn là thứ hàng bình thường, mà nó đã trở thành một sản phẩm tinh thần không thể thiếu của người dân Việt. Cùng với những phong tục truyền thống khác, nén hương đã góp phần tạo nên và bảo tồn giá trị bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
Mùi hương là mùi thơm quen thuộc trong nhà hằng triệu triệu người châu Á – là mùi thơm đặc biệt của ngày đầu năm đi chùa lễ Phật. Chúng ta luôn bắt gặp hình ảnh những cụ ông, cụ bà, nam thanh, nữ tú, tay cầm hương khấn vái cầu mong một năm mới an khang, thịnh vượng, phúc lộc thọ khang ninh… Đây hoàn toàn không phải là hành động mê tín dị đoan, mà là một nét đẹp văn hóa lâu đời.
Từ ngàn xưa, khi mới khám phá ra lửa, con người đã bắt đầu phát hiện ra một điều lạ lùng, đó là khi ngọn lửa cháy lên, sẽ tỏa ra mùi thơm đặc biệt tùy theo vật liệu dùng để đốt. Người ta đã biết dùng hương đèn để trị bệnh cho thân thể và cả bệnh tâm lý. Khi đốt hương đèn, khói hương nghi ngút, tạo nên không khí thanh tịnh, ấm áp và trang nghiêm, hoặc tạo không khí trong sạch trong những căn phòng lạnh lẽo của người qua đời, hoặc lâm trọng bệnh.
Theo sử sách ghi lại, việc đốt hương bắt nguồn từ khoảng năm 3.700 trước công nguyên (cách đây khoảng 5.700 năm), từ nước Ấn Độ. Đến năm 618 sau công nguyên, vào đời nhà Tần mới có một nhà sư đem hương trầm đến Trung Quốc, từ đó hình thức đốt hương được phát triển mạnh mẽ và hưng thịnh nhất vào đời nhà Minh, sau đó được phổ biến đến các nước láng giềng. Có thể nói, hình thức đốt hương phổ biến nhất ở Nhật Bản. Tại đây, họ lại chế thêm nhiều cách đốt hương, sản phẩm quen thuộc nhất là nén trầm hình tròn, đầu nhọn vào thế kỷ XVII, ngày nay vẫn còn dùng. Nhiều tài liệu cho thấy, việc đốt hương đã có từ thời sơ khai. Trong các đền thờ của vua chúa Ai Cập, có rất nhiều những hình vẽ, hoặc hình chạm trên tường mô tả nghi thức này.
Ngày nay, việc thắp hương đã trở thành một tập quán trong các ngày lễ hội như Rằm tháng bảy, lễ Vu Lan, ngày Tết hái lộc đầu năm, Phật đản, và những ngày quan trọng trong gia đình như cúng giỗ, đám tang, đám cưới, ăn tân gia…
Không chỉ Phật giáo, mà cả những tôn giáo khác như Thiên Chúa giáo cũng dùng hương trong các ngày lễ của mình. Người Thiên Chúa giáo xông hương trong các thánh lễ, trước bàn thờ, trước cuốn Kinh Thánh, mình Thánh, rượu Thánh và cả linh cữu của người đã mất… Những tôn giáo khác như Ấn Độ giáo (Hinduism) thì lại dùng hương để thư giãn và tập trung hơi thở lúc ngồi thiền.
Tuy nhiên, một điều cần phải ghi nhớ là, mỗi lần chúng ta dâng hương trước bàn thờ thì phải bằng tấm lòng thành kính của mình. Nên cắm từng nén hương bằng hai tay và cắm cho ngay ngắn, tượng trưng cho tấm lòng ngay thẳng, mặc cho bão táp phong ba không hề dời đổi, giữ nguyên phong cách của ngừời quân tử, với tấm lòng trong sạch để lưu lại tiếng thơm cho đời.
Thêm nữa, để thể hiện tấm lòng duy nhất kính trọng tổ tiên (nhất tiên) thì chỉ nên thắp một nén hương trên bàn thờ tổ tiên, không như nhiều người cho rằng, thắp càng nhiều càng thể hiện nhiều lòng thành.
QUANG XUÂN