Lê Đức Toàn – Giám đốc Công ty TNHH Toàn Phát, chuyên kinh doanh xe hơi đã qua sử dụng. Anh là thành viên tích cực hoạt động trong Câu lạc bộ Doanh nhân Sài Gòn (Ban Văn – Thể – Mỹ) và là Trưởng ban Caravan Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường TP.HCM.
Lê Đức Toàn hướng đến các hoạt động thiện nguyện được nhiều người yêu quí. Gần đây thỉnh thoảng anh viết, viết lại những gì gần gũi với mình, từ chuyện công việc dẫn đoàn trong các chuyến Caravan đến những kỷ niệm thời thơ bé với con sông và cây cầu Nhị Thiên Đường ngày xa xưa.
Và trong đó, ký ức một thời về những chiếc xe Xích lô máy, xe lam, được anh viết lại vô cùng đáng yêu, bởi nó gắn một thời làm nên vẻ đẹp Sài Gòn độc đáo lại vừa giúp kinh tế Sài Gòn một thời phát triển…
Xe xích lô máy ( Triporteur Peugeot 55 TN )
Được sản xuất vào thập niên 1930, với dung tích xi lanh 125 cc, động cơ 2 thì, 4 mã lực, hộp số 3 số, xích lô máy du nhập vào Việt Nam năm 1939 do Pháp sản xuất. Chiếc xe xích lô máy ban đầu được thiết kế chủ yếu chở hàng, qua Việt Nam được cải tiến lắp thêm nệm da, phía trên lắp thêm mui xếp để che nắng, có thể chở từ 3 đến 4 người, và cũng chở hàng hóa.
Cuối thập niên 1940 đến 1950 tổng số xe xích lô máy mà Sài Gòn có được, theo nhà chức trách thông báo, là 1800 chiếc. Có thể nói rằng, đây là một số lượng xe tương đối lớn, ít có thành phố nào trên thế giới có được. Vì sao?
Xe xích lô máy rất phù hợp với hệ thống giao thông Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Định, lúc bấy giờ. Xe xích lô máy có thể chạy vào các con hẻm nhỏ và ngoằn ngoèo, vốn là đặc thù của đô thị Sài Gòn – Gia Định xưa. Cái hay của xích lô máy khi muốn quay đầu trong hẻm nhỏ, ta chỉ cần nhất bổng bánh xe phía sau, bỏ qua một bên một góc 60 độ là xe có thể quay đầu.
Xe xích lô máy được dân Sài Gòn ưa chuộng bởi vì so với đi xe taxi nó rẻ hơn rất nhiều. Và, ngồi trên xa xích lô máy cũng dễ chịu hơn taxi bởi vì lúc đó xe taxi chưa có gắn máy lạnh nên rất rất nóng. Chính vì lẽ đó nên xe xích lô rất được nhiều giới, từ bình dân đến công chức, lựa chọn và giúp nó phát triển rất mạnh vào những thập kỷ sau đó.
Nhưng đến năm 1975 Miền Nam hoàn giải phóng, dưới chế độ bao cấp, muốn mua xăng dầu rất khó, tất cả các xe khách xe tải tư nhân coi như dừng hoạt động, chỉ còn xích lô máy cũng hoạt động cầm chừng.
Đến năm 1986 khi nhà nước bắt đầu mở cửa, xóa bỏ bao cấp, các công ty nhập khẩu ào ạt các loại xe tải và ôtô, lượng xăng dầu được mua thoải mái, các loại xe khác và nhất là xe hơi phát triển. Lúc này, xích lô máy không cạnh tranh nổi, cộng với không có phụ kiện thay thế nên gây tiếng ồn và khói bụi, nhà nước cấm luôn phương tiện này lưu thông.
Từ đó đến nay, nhiều người nên chúng ta không nhìn thấy xa xích lô máy nữa… Thế nhưng, với lịch sử của Sài Gòn, xích lô máy cũng đã từng là biểu tượng duy nhất của Sài Gòn không có nơi nào khác có được. Xích lô máy đã có công phát triển kinh tế, vận tải con người và hàng hóa, góp phần làm nên một Sài Gòn xưa và độc đáo.
Xe lam (Lambro)
Vào đầu thập niên 60, Sài Gòn đã có xích lô máy, xích lô đạp, và có cả một số dòng xe ôtô của Pháp nhưng không nhiều, sự xuất hiện của những chiếc xe lam làm cho Sài Gòn đẹp và năng động hơn.
Xe Lambro được nhập khẩu từ Ý, với dung tích xi lanh từ 125 đến 198 cc, xe chở được từ 8 đến 10 người, nếu chở hàng tối đa là 550 kg. Xe lam khác với xích lô máy là người lái ngồi phía trước, xích lô máy người lái ngồi phía sau, dù cả hai loại xe này đều có một đặc điểm giống nhau là có 3 bánh.
Vào thời điểm đó, để sở hữu một chiếc xe lam rất khó khăn, giá trị một xe lên đến 30 cây vàng. Để giải quyết công ăn việc làm cho những gia đình khó khăn, đồng thời nâng cấp hệ thống vận tải công cộng của Sài Gòn, chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã tiến hành chương trình (hữu sản hóa) bảo lãnh cho người dân được mua xe dưới hình thức trả góp, để cải thiện kinh tế.
Đặt thù hoạt động của xe lam thời đó được quản lý tốt là xe cũng có bến đậu và cũng chạy theo tuyến cố định. Cái hay của xe lam là đi ít trả tiền ít, và không có điểm đón cố định. Khách muốn đi xe chỉ cần ra đứng sát vỉa hè ngoắc ngoắc tay là xe tấp vào đón liền, rất tiện lợi, mọi lúc mọi nơi.
Vào thời điểm đó gia đình nào có xe lam là dạng khá giả, người ta ví (nói rằng) chạy một ngày có thể xài cả tháng. Thật vậy, lúc đó nhà tôi cũng có chiếc xe lam chạy tuyến Trần Hưng Đạo – chợ Bến Thành, thu nhập cũng khá. Bởi vì, trước năm 1975 các sĩ quan Mỹ ở các cao ốc dọc các tuyến đường Trần Hưng Đạo, bây giờ là các ký túc xá đại học, cũng như tòa nhà 727, nên các sĩ quan và lính Mỹ đi mua sắm và ăn chơi khu vực quanh quận 1 rất nhiều, thường đi bằng xe lam. Lính Mỹ đi thì thường “bo” luôn một đôla, nên rất nhiều gia đình có xe lam chạy những tuyến này rất khấm khá.
Theo số liệu tôi tìm hiểu, toàn bộ số xe lam riêng của Sài Gòn lúc cao điểm khoảng 4.000 chiếc và toàn miền Nam lên đến 30.000 chiếc. Đây được coi là phương tiện vận chuyển chính của người dân Sài Gòn và các đô thị, vùng ven… Với số lượng xe của Sài Gòn khi đó thì ít có thành phố nào trên thế giới sở hữu một lượng xe lam rất khủng như thế.
Đặc biệt, sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, chúng ta bị Mỹ cấm vận một thời gian rất dài, nên hàng hóa xuất nhập khẩu bị tê liệt, thời bao cấp xăng dầu rất khó khăn, nên xe buýt và các loại xe tải khác không hoạt động được, chỉ còn xe lam là phương tiện chủ lực chở người và hàng hóa rất hiệu quả.
Cũng vào khoảng năm 1986, sau khi nhà nước xóa bỏ bao cấp, cộng với việc Mỹ xóa bỏ lệnh cấm vận, các doanh nhập khẩu các loại xe để phát triển đất nước, khi đó xe lam phần lớn đã cũ kỹ nên không còn phù hợp với việc phát triển kinh tế, cũng ít đi dần. Đến năm 2004, nhà nước ban hành lệnh cấm toàn bộ xe lam lưu hành.
Mặt dù chúng ta không còn thấy xe lam chạy trên đường, nhưng người Sài Gòn không thể quên được hình dáng nhỏ gọn và tiếng nổ bành bành của chúng. Hình ảnh chiếc xe lam ăn sâu vào tiềm thức của người dân Sài Thành, một di sản mà khi nhắc đến Sài Gòn xưa không thể không kể đến xe lam.