Gia sản bố anh để lại là căn nhà trên mảnh đất ngàn mét vuông – Là thành công bất ngờ trong cuộc đời làm thợ sơn của ông.
Số là vào những năm chiến tranh chống Mỹ, còn thời bao cấp, một ngày mùa đông lạnh giá, bỗng dưng có hai người đàn ông, một trung tuổi và một thanh niên dò hỏi tìm đến nhà ông, lúc ấy còn ở một căn hộ chật hẹp trong ngõ nhỏ trên phố, để cầu khẩn nhờ ông sơn vá một miếng nhỏ bằng bàn tay cho chiếc xe con du lịch đen bóng mới tinh vừa nhập qua cảng Hải Phòng.
Hỏi chuyện mới biết, thì ra anh thanh niên, cháu ruột của ông nọ – một cán bộ cấp cao thành phố, có nhiệm vụ lái chiếc xe để giao cho Đại sứ quán một nước ngoài đóng tại Hà Nội, chẳng may đã để nó bị va quệt. Sự kiện như một việc tày đình bởi anh chàng sẽ cầm chắc bị mất việc làm chứ chẳng phải chuyện chơi. Mà thời gian quá gấp rồi …
Được nghe kể lại rằng khi đó bố anh đắn đo lắm, vì đây là cơ hội kiếm tiền hiếm hoi trong nghề, nhất là vào thời buổi khó khăn, lương tháng chỉ có mấy chục đồng bạc.
Nhìn vẻ mặt thiểu não của hai người khách, ông buông lời ướm hỏi :
– Thế các vị có thể trả tôi bao nhiêu tiền cho nốt vá đó ?
– Nào cháu có biết gì đâu, tùy bác thôi. Nếu vụ việc này không giải được, cháu chắc chắn mất việc, mà vợ cháu lại sắp sinh. Anh thanh niên khổ sở khẩn cầu.
Còn ông bác của anh ta chỉ còn biết xoa hai bàn tay :
– Ông cứ coi cháu nó như con cái tùy định liệu. Chúng tôi biết ơn ông lắm.
Nhận làm thì chắc chắn rồi, nhưng tìm được nguyên liệu để thực hiện cho hoàn mỹ quả là một việc khó khăn giữa thời buổi chiến tranh này. Bố anh đem điều băn khoăn nói với khách hàng của mình. Mắt người đàn ông trung tuổi đối diện chợt sáng lên :
– Ông khỏi lo. Với cương vị của tôi ở thành phố này, việc đó trông tầm tay.
Nghe vậy, bố anh rất mừng. Thì ra, điều mà ông hướng tới không phải là số tiền công họ sẽ trả tương đương mấy tháng lương khi thỏa thuận, điều quan trọng là ông được cung cấp ngay lập tức mấy thùng sơn ngoại vào thời điểm đó quí như vàng ròng. Ông bắt tay vào việc với xung lực đầy phấn khích. Chỉ có gần một ngày gò nắn, sơn bả rồi sơn xi mấy lượt, chiếc xe được trả về nguyên diện mạo lúc đầu, không ai có thể nhận ra một tí mảy may tì vết của chỗ vá. Tất cả hai phía đều sung sướng, mãn nguyện. Cuộc gặp ngẫu nhiên đó đã cho bố anh một quan hệ tốt bởi ông chỉ “giơ cao, đánh khẽ”, có nghĩa là chỉ lấy tiền vừa phải do ái ngại hoàn cảnh người thanh niên, bởi ông thấy anh ta rất thành khẩn và lễ phép.
Hôm nhận tiền công – đúng ra là tiền thưởng, tại căn nhà chật chội của bố anh, bên mâm cơm có con gà luộc và cút rượu, ông bác ruột người thanh niên sau một lúc suy nghĩ rồi cởi mở hỏi bố anh:
– Nếu ông muốn thay đổi chỗ ở, tôi sẽ giúp.
– Xin lỗi ông, tôi chưa hiểu… Bố anh dè dặt trả lời.
– Khả năng sẽ xin được đất rộng. Chỉ phiền một nỗi ở ven ngoại thành.
Khi nghe người kia nói vậy, bố anh quá ngạc nhiên vì mơ ước đó quá sức tưởng tượng, ông run run trả lời :
– Cảm ơn ông quá nhưng tình thực gia đình tôi không có tiền.
– Ồ! Bác cháu tôi mới phải cảm ơn ông nhiều. Tôi rất vui được biết một người thợ giỏi và đức độ như ông. Bây giờ tôi còn công tác và quan hệ nhiều. Việc đó với tôi có thể thu xếp được, ông đừng ngại.
Thế là với chiếc bút và tờ giấy, một lá thư tình cảm được viết gửi cho một chủ tịch xã ven ngoại thành. Ông cán bộ còn dặn dò tỉ mỉ:
– Tôi vận dụng vào chủ trương khuyến khích mở đất khai hoang để canh tác nên có thể được thì chỉ là loại đất phải mất công cải tạo nhiều đấy ông ạ.
– Tôi quả thật mang ơn ông quá.
Chưa đầy một tháng, bố anh được cấp một ngàn mét vuông đất với đầy đủ thủ tục giấy tờ hẳn hoi mà chỉ mất một cân chè khô biếu lại.
Bố anh là người sành rượu. Kể cả những khi túng thiếu nhất ông cũng không quên về tận quê Trương Xá đặt ở những lò rượu thứ thiệt một loại đặc biệt để ngâm thuốc cho đủ thời gian ngấm thì mới uống. Và chỉ uống điều độ, thú nhất với mấy người bạn tâm giao.
Khi được mảnh đất, ông huy động toàn bộ nhân lực trong gia đình khẩn trương đóng gạch xỉ vôi. Ngày căn nhà được dựng xong, ông sung sướng lắm. Ông cho đào một cái ao và qui hoạch trồng cây ăn trái với hàng rào dâm bụt xung quanh vườn. Lần này, ông ngâm một hũ rượu lớn và nguyện để giành cho lúc cuối đời khi đã nghỉ hưu. Có một điều thú vị với ông là ngoài làm thợ, ông còn khoái văn chương thơ phú mặc dù chẳng tham gia hội hè này nọ gì. Nhưng thật không may, bố anh đã ra đi bất chợt sau một lần cảm mạo. Trước lúc về với tiên tổ, ông còn nắm tay anh cố thều thào trong dòng mồ hôi rịn ướt đẫm vầng trán mặc dù trời đang lạnh :
– Con ơi!… Giầu nghèo là do trời định. Đừng thấy thiên hạ kiếm tiền mà lóa mắt để không phân biệt được việc nên hay không nên làm… Phải có một nghề giỏi để dung thân với bất cứ thời đại nào. Và dụng nghề cùng với đức độ cũng như lòng thương người, thương đời. Thiên hạ là sao, ai kệ ai, ta cứ biết ta và dạy dỗ cho con cháu đời sau như vậy thì gia phong mới tốt được…
Bây giờ ngẫm lại, anh thấy quả đúng như lời dạy của cha. Mảnh đất mà anh được hưởng bỗng dưng trở thành lô vàng sau mấy chục năm hết chiến tranh, kể từ khi nhà nước qui hoạch một con đường lớn chạy qua.
Nhờ chăm chỉ học hành nghiên cứu, không những anh có phát kiến chế tạo máy móc mà còn hiểu biết rất sâu sắc về lĩnh vực đồ cổ. Cơ ngơi của anh cứ phất lên như diều gặp gió.
Anh cho xây một căn nhà đẹp giữa mảnh vườn sum xuê cây ăn trái lưu niên và các chậu cảnh quí hiếm mà bố anh đã trồng từ trước đây. Ai đến thăm cũng trầm trồ ngợi khen và không giấu nổi niềm ao ước có được nó.
Trong căn nhà, anh bầy nhiều đồ cổ đắt giá cùng những bức tranh nghệ thuật của các họa sĩ sưu tầm được, khiến tiếng tăm anh loang xa trong giới chơi nghệ thuật và sưu tầm đồ cổ. Tuy nhiên, anh là người khiêm nhường nên bạn bè đứng đắn đều quí mến và vị nể. Anh coi nhà mình là nơi giải tỏa nỗi buồn nhân tình thế thái và trao đổi học hỏi các lãnh vực cần nghiên cứu, lấy đó làm niềm vui ở đời. Anh luôn luôn nhớ lời cha dặn rằng muôn vạn thời đại, bao giờ cũng có mâu thuẫn xung đột, cố gắng né tránh chuyện triều chính thì cuộc sống nhẹ lòng thanh thản.
*
* *
Có lần, một bà đồng nát đi ngang qua nhà khi trưa nắng với gánh quẩy nặng hàng thu gom được. Thấy anh, bà đặt gánh ngỏ ý muốn xin ngụm nước cho qua cơn khát. Anh hồ hởi mời bà vào sân để uống nước, nhân tiện ghé mắt quan sát gánh hàng . Anh chợt nhận thấy một chiếc bình nhôm hơi lạ mắt. Cầm chiếc bình, anh mân mê lật đi lật lại ngắm kỹ rồi ngỏ ý muốn mua lại của bà. Bà cụ móm mém cười rồi nói :
– Cái đồ vứt đi ấy đập bẹp chưa nổi nửa lạng nhôm phế. Anh mời tôi cốc nước này là quí lắm rồi. Tôi chẳng lấy tiền của anh đâu.
– Con nhận nhưng biếu bà vài ngàn ăn quà.
Bà cụ xả chuỗi cười khoái trí.
Với người vô tình thì không hay, với anh nó gây ấn tượng đặc biệt. Cầm trên tay, dùng mảnh giấy ráp nhỏ đánh qua, khi lớp rỉ nhôm phía ngoài mất đi, anh thấy hiện ra những nốt khẩn khắc hình một cành hoa lá thật mềm mại cùng một người lính đeo ba lô súng đạn đang gò mình hăm hở bước đi trên dải đá tai mèo và dòng chữ nắn nót “Kỷ niệm Trường Sơn”. Anh tần ngần lật đáy chiếc bình nhỏ nhìn kỹ, một chữ MAI khắc giữa một bông hoa to. Anh suy nghĩ, không biết MAI là tên người làm chiếc bình này hay MAI là bông hoa mai hay NGÀY MAI ? Chắc chắn nó được làm từ một ống pháo sáng nhỏ. Không những thế, phải là một bàn tay thợ gò rất tài ba mới có thể vuốt khum phần trên để tạo thành cổ bình chỉ nhỏ đút lọt ngón tay trỏ với một chiếc nắp chế tạo rất khéo khít vừa với cổ. Miếng nhôm làm đáy được gò mép rất chuẩn, mới trông qua như được ghép bằng máy móc công nghiệp vậy. Toàn bộ chiếc bình quá nhẹ vì vỏ được giàn ra rất mỏng. Đặc biệt, thân bình trơn liền, nhẵn lỳ không có mối ghép.
Anh đã từng lưu giữ một chiếc điếu cày bằng tre được trạm trổ công phu đến mức tỉ mẩn, tinh xảo hình toàn bộ gia đình với người vợ bồng con, mẹ già ngôi chờ bên bậu cửa, cùng chó, gà, mèo, bụi tre, lá khoai… của một người tử tù làm trong những ngày chờ đợi bị đưa ra pháp trường. Đó là di vật của một kiếp người bất hạnh nhưng đến những giây phút cuối cùng rời cuộc sống, họ vẫn bộc lộ khát khao một ước muốn quay trở về miền giản dị của cuộc mưu sinh.
Còn chiếc bình này, chắc chắn nó được khai sinh từ tay một người lính – người thợ. Chắc hẳn anh ta phải thực hiện nó trong những thời khắc nhàn rỗi nhất, khi mà ý thức không hề vướng bận bởi một mảy may so đo tính toán được qui ra tiền. Nó được làm giữa hai giờ nghỉ trên đường hành quân hay là khi đã rời quân ngũ? Nó được dùng để đựng nước uống thay chiếc bi đông đã bị thủng vì bom bi hay để đựng chè khi đã trở về dưới mái nhà tranh yêu dấu của mình ?
Nói gì thì nói, nhưng chắc chắn đó là kỷ vật rất quí báu của một con người chân chính.
Dù cho thời đại của khoa học có trút xuống như mưa những rác thải các loại đồ hộp như vỏ lon Cocacola, bia… rất đẹp về hình thức mẫu mã và đã trở nên nhàm chán trong mắt người đời. Chẳng ai nâng niu, cất giữ chúng trong ngăn giữa của tủ Bup-phê như ngày xưa nữa. A lê hấp! Người ta quẳng nó ra sọt rác để nuôi sống những đứa trẻ chuyên nhặt ve chai và những bà già buôn đồng nát…
Nhưng tại sao nó không còn được lưu giữ đúng nghĩa như một kỷ vật quí giá không được phép qui ra tiền? Hay là người chủ nó đã chết ? Anh ta không còn ai thân thiết để giữ nó à? Hay là anh ta đã trở thành một “sếp” bự với rất nhiều bổng lộc và lạc lối đến thế giới giầu sang của quyền lực để có thể quên đi một kỷ vật không phải là huân chương chiến công? Đời cũng có thể xảy ra nhiều trường hợp tương tự như thế lắm chứ.
Anh quyết định đánh bóng lại chiếc bình nhôm nhỏ nhưng không thể làm sao cho nó sáng ngời như mới được, cảm giác như nhuốm màu oan khí, bởi các vết ố của rỉ theo thời gian đã hằn quá sâu, khiến những hình nét khắc bị loang lổ, đứt đoạn. Tuy nhiên, anh vẫn quả quyết đó là vật quí được tạo ra từ đôi bàn tay khéo léo của con người. Nó là tuyên ngôn hùng hồn về nền văn minh của loài người, có giá trị không kém những đồ cổ đắt tiền mà anh đang lưu giữ cẩn thận trong những tủ kính trong nhà.
Cho dù số phận con người tạo ra nó đã đi về đâu, bị rời bỏ nó hay đã quên nó, bội bạc đoạn tuyệt nó, nhưng khi nó tìm đến anh để cầu xin che chở thì anh phải thực hiện sứ mệnh của mình. Anh cẩn thận đặt nó vào tủ kính, bên cạnh một đĩa men Xia-ra-don rất quí.
*
* *
Từ khi có chiếc bình nhôm, khách đến chơi cũng như buôn đồ cổ đều hững hờ bỏ qua. Không một ai tỏ ra chăm chú nhìn nó một lần, vì họ quá tinh thông để chắc chắn rằng nó không phải đồ cổ, chẳng có giá trị gì. Nhưng cũng từ đó, anh tỏ ra trầm ngâm hơn như một sự đợi chờ. Chưa ai phát hiện ra cái buồn lặng lẽ của anh. Một cái buồn vì nỗi cảm nhận ra sự vô tình bạc bẽo của người đời, tính thực dụng đến tàn nhẫn của đời. Và cũng từ đó, ai cũng lạ rằng anh không mang rượu ngon để tiếp họ nữa, chỉ có trà thường hoặc bia.
Có một lần, anh mang hũ rượu ngâm thuốc quí của cha ra xem. Anh biết chắc chắn nó đã được chuyển hóa rất kỹ theo thời gian để tạo ra một hương vị say nồng đặc biệt. Hũ rượu này cha anh chưa kịp dùng. Ông từng muốn được rót ra mấy chén nhỏ trong một đêm trăng thanh gió mát, có thoang thoảng hương hoa ngọc lan với những người bạn thơ nghèo mà thanh cao của mình.
Những người có tư chất như lớp cha mình, bây giờ, anh thấy quả là ít, ít như những ngôi sao hiếm hoi của một đêm mây giông vần vụ.
Nhưng anh vẫn kiên nhẫn đợi chờ có một người nào nhận ra sự quí giá của chiếc bình nhôm bị ghẻ lạnh lãng quên ấy. Được vậy, anh sẽ sung sướng níu giữ họ lại, đóng cửa, rồi mở hũ rượu quí của cha để lại mà tiếp họ, vì họ xứng đáng được đối xử như vậy.
Nhưng tháng ngày qua đi mau, tóc anh bạc thêm. Anh cảm thấy mệt mỏi trong các quan hệ và sự đợi chờ…
Vẫn chỉ có những ông kễnh giầu xổi nhờ quyền lực của việc “ăn đất”, hoặc trúng mánh trong việc lại quả của các dự án công trình mà giầu lên hầm hập. Họ có thể ra lệnh phá đi một biệt thự đang xây dở vì mới lên cơn hứng nghĩ ra một kiểu cách tân kỳ ngộ, hoặc sẵn sàng đánh xe lên tận các làng nghề đóng đồ gỗ để cầu kỳ đặt những tủ chè sập gụ khảm trai giá hàng trăm triệu đồng, nhưng không dám bỏ ra một vài triệu mua để CHƠI bức tranh có giá trị nghệ thuật của một họa sỹ nghèo. Họ quá hào hiệp bỏ ra hàng chục triệu và bắt tài xế đánh xe lên shop tranh ở phố chính mua về TREO la liệt trong các sảnh phòng chỉ bởi đó là tranh ngoại, được nhập khẩu từ Đài Loan chẳng hạn. Mặc dù chẳng bao giờ họ biết rằng đó là loại tranh được vẽ bằng Rô bốt, chỉ có số hiệu mà không có chữ ký của họa sỹ.
Anh rất buồn khi phải tiếp những con người lực lưỡng oai phong ấy khi họ đến hỏi mua đồ cổ với ý tưởng “chất cho đầy” nội thất hùng vĩ của mình. Nhưng biết làm thế nào được, phải chịu đựng vậy thôi. Anh phải kiên nhẫn chờ đợi vì không thể làm thế nào khác được.
Anh ôm hũ rượu quí của cha mình vào lòng để cảm nhận hơi ấm an ủi và hương thơm của nó với tâm trạng rưng rưng.
Anh chợt nhớ tới giọng ngâm của cha trong một đêm trăng nào xa lắm…
“Bến Mi lăng nằm không thuyền đợi khách
Rượu hết rồi ông lão chẳng buông câu…”
TRẦN HUY ĐỨC