Lý do chính mà Bộ Tài chính bổ sung mặt hàng nước ngọt vào đối tượng chịu Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) là: Để phù hợp với thông lệ quốc tế; Thực hiện Chiến lược Cải cách thuế giai đoạn 2011 – 2020 và Để hướng dẫn điều tiết tiêu dùng. Xin thưa, lịch sử hình thành và phát triển của ngành sản xuất nước ngọt đã có cách đây hàng trăm năm, đến hôm nay Bộ Tài chính mới đưa ra hướng dẫn điều tiết sử dụng, thì e rằng người tiêu dùng cũng đã nếm đủ, nếu nó là sản phẩm có hại. Thông lệ quốc tế ư? Một cường quốc có dân số lớn như Trung Quốc tại sao họ không áp dụng thuế TTĐB cho nước ngọt? Một ngành hàng đang tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước thì việc gì phải cải cách?
Không biết vô tình hay hữu ý, nhưng lập luận của Bộ Tài chính được xem là không chính xác. Bộ Tài chính đề nghị bổ sung nước ngọt bao gồm loại có ga, không ga, tăng lực, thể thao, trà, cà phê uống liền được đóng gói theo dây chuyền sản xuất công nghiệp, trừ: Nước trái cây, nước rau quả 100% tự nhiên, sữa và các sản phẩm sữa vào đối tượng chịu thuế TTĐB. Liệu các quốc gia hàng đầu thế giới như: Mỹ, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản… đã có nước nào sản xuất nước trái cây, nước rau quả 100% tự nhiên trên dây chuyền công nghiệp chưa? Thực tế là không có.
Nước ngọt “chịu trận” cho người tăng cân béo phì.
Các doanh nghiệp nước giải khát đang băn khoăn rằng, Bộ Tài chính sẽ đánh thuế theo: Định lượng, số lượng, tỷ lệ đường như thế nào trong từng sản phẩm. Nếu đánh thuế lượng đường trong nước ngọt thì kẹo, bánh, tinh bột có phải chịu thuế TTĐB không? Bởi các sản phẩm này cũng chứa lượng đường đáng kể. Nếu trong khẩu phần ăn của một người bình thương khi lạm dụng các chất tinh bột thì nó cũng có nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, béo phì… chứ không riêng gì lạm dụng nước ngọt.
Còn các doanh nghiệp sản xuất Cà phê trong nước cũng khá hoang mang. Vì cà phê uống liền là sản phẩm của nông nghiệp Việt Nam. Chính phủ, ngành nông nghiệp đang khuyến khích thu hút các doanh nghiệp đầu tư máy móc vào chế biến để nâng cao giá trị gia tăng các mặt hàng nông sản thì lại bị áp thuế.
Như vậy, nó mâu thuẫn với các doanh nghiệp có ý định đầu tư công nghệ phụ trợ. Cà phê đóng gói thể hiện sự văn minh, an toàn và sạch hơn nhưng lại phải đóng thuế. Nếu sản phẩm đắt thì người tiêu dùng sẽ giảm mua, thậm chí là không mua.
Theo phân tích của các chuyên gia kinh tế, sự thay đổi mạnh về lựa chọn của người tiêu dùng còn tác động trực tiếp tới mức thu của một loạt các loại thuế khác liên quan đến doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp và nhà sản xuất. Bởi trong trường hợp mức tiêu thụ nước ngọt giảm, doanh thu của các bên nói trên sẽ giảm và kéo theo đó là hụt nguồn thu thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, nếu tác động môi trường, y tế, an ninh xã hội của việc áp thuế TTĐB lên nước ngọt không được chứng minh; khoản thu ngân sách nhà nước bị thâm hụt sẽ trở nên vô nghĩa. Nói cách khác, áp dụng thuế TTĐB cho nước ngọt chưa chắc đã thực sự tăng thu ngân sách.
Một số sản phẩm nước ngọt trong nước như Công ty TNHH Thương mại và dịch vụ Tân Hiệp Phát, Công ty Cổ phần Nước giải khát Chương Dương… đang đứng giữa hai dòng xoáy. Bộ Chính trị phát động Chương trình Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam, và các doanh nghiệp đã làm rất tốt chương trình đưa hàng về nông thôn, vùng sâu, vùng xa và hải đảo. Tuy nhiên, Bộ Tài chính lại áp thuế TTĐB cho các sản phẩm nước ngọt, đó sẽ là tác động không nhỏ đến người tiêu dùng, doanh nghiệp sản xuất và thập chí thâm hụt ngân sách nếu chúng ta không cân nhắc kỹ.
Vừa khuyến khích, vừa áp thuế.
Bộ Tài chính cho biết người trưởng thành ở Việt Nam bị thừa cân, béo phì chiếm 25%, trẻ em dưới 5 tuổi tăng từ mức 0,6% năm 2000 lên 5,3% năm 2015… Tuy nhiên, Bộ này không cho biết rõ là nguyên nhân gì làm tăng cân, béo phì và những nghiên cứu này có qui mô ra sao.
Thuế TTĐB được áp dụng ở một số nước, chủ yếu là các nước đang phát triển ở châu Phi, Trung Đông và châu Á nhưng là với quan điểm xếp vào hàng xa xỉ, ngang với nước hoa, đồ trang sức, thảm, pha lê thủy tinh… Mục tiêu đánh thuế ở các quốc gia này là điều tiết chi tiêu của người giàu để tạo sự công bằng trong xã hội.
Còn các quốc gia đang thu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nước ngọt, thì số thuế thu được chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số thuế tiêu thụ đặc biệt thu được. Ví dụ như chỉ dưới khoảng dưới 0,1 % ở Tanzania, 0,3% ở Thổ Nhĩ Kỳ, và tối đa 3,6 % tổng số thuế TTĐB thu được ở Thái Lan.
Như vậy, việc thu thuế TTĐB đối với nước ngọt có lẽ sẽ chỉ tạo ra một nguồn thu tương đối nhỏ trong khi hiệu ứng lớn hơn của nó sẽ là giảm nguồn thu từ các loại thuế khác như thuế GTGT và thuế doanh nghiệp. Và số tiền thuế thu về ít ỏi đó chưa chắc đã đủ để bù đắp cho các chi phí quản lý thuế, triển khai thực hiện trong xã hội.
Nhiều chuyên gia ngành Đồ uống Việt Nam khuyến cáo rằng, cơ quan soạn thảo của Bộ Tài Chính nên tham khảo kỹ được – mất khi đánh sắc thuế trên cho nước ngọt, trong khi, lý do vì sức khỏe người tiêu dùng vẫn chưa được thống nhất; Thông lệ quốc tế chưa được kiểm chứng, hoàn cảnh, vị trí địa lý của Việt Nam khác xa với các nước đang áp thuế TTĐB cho nước ngọt trên thế giới; Ngân sách thuế chưa chắc chắn được tăng nếu thu thuế TTĐB của nước ngọt.
BÁ QUỲNH