Áp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với đồ uống có đường là biện pháp quan trọng được Tổ chức Y tế Thế giới khuyến khích nhằm giảm mức tiêu thụ và các tác hại của đồ uống có đường, trong đó có nước giải khát có đường đối với sức khỏe.
Khái niệm về đồ uống có đường và nước giải khát có đường
Đồ uống có đường (ĐUCĐ), theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) là tất cả các loại đồ uống không cồn có chứa đường tự do. Đường tự do là các đường đơn (như glucose, fructose) và đường đôi (sucrose hoặc đường ăn) được thêm vào thực phẩm và đồ uống bởi nhà sản xuất, người chế biến, hoặc người tiêu dùng; và đường tự nhiên có trong siro, mật ong, nước ép hoa quả, nước hoa quả cô đặc.
Các loại đường vẫn được bao bọc trong thành tế bào như trong trái cây nguyên hạt, đường tự nhiên trong sữa thì không được phân loại là đường tự do.
Nước giải khát (NGK), theo Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 12828:2019, là sản phẩm pha sẵn để uống với mục đích giải khát, được chế biến từ nước, có thể chứa đường, phụ gia thực phẩm, hương liệu, có thể bổ sung các thành phần nguyên liệu có nguồn gốc tự nhiên, vitamin và khoáng chất, có ga hoặc không có ga. NGK có chứa đường được gọi ngắn gọn là NGK có đường.
Các nhóm sản phẩm thuộc NGK theo TCVN 12828:2019 và thuộc ĐUCĐ theo định nghĩa của WHO, bao gồm:
Như vậy, các nhóm sản phẩm thuộc khái niệm NGK theo Tiêu chuẩn Việt Nam đã được bao hàm trong các nhóm sản phẩm ĐUCĐ theo định nghĩa của WHO, ngoại trừ 2 nhóm sản phẩm là: Chất cô đặc dạng lỏng và bột, nước có pha chế hương liệu và sữa có pha chế hương liệu.
Mặc dù các loại đường được sử dụng chế biến thực phẩm như fructose, glucose, hoặc sucrose và mỗi loại ĐUCĐ có đặc điểm và tác dụng riêng, việc tiêu thụ quá nhiều đều có thể dẫn đến hậu quả gây ra nhiều nguy cơ và hệ lụy đối với sức khỏe. Cho nên, việc sử dụng các loại đường tự nhiên, kết hợp với chế độ ăn uống và lối sống lành mạnh, sẽ giúp hạn chế các nguy cơ sức khỏe liên quan đến đường.
Thói quen tiêu thụ thường xuyên ĐUCĐ và nguy cơ đối với sức khỏe
ThS-BS Nguyễn Tuấn Lâm, đại diện (WHO) tại Việt Nam cho biết, tiêu thụ thường xuyên ĐUCĐ/NGK có đường được xác định là một trong những nguyên nhân chính gây ra hiện tượng thừa cân, béo phì và các bệnh không lây liên quan đến hội chứng rối loạn chuyển hóa trong cơ thể và các bệnh liên quan đến răng miệng,…
Qua kết quả xét nghiệm máu của một người có thể chẩn đoán mắc hội chứng rối loạn chuyển hóa như đường huyết cao, có nguy cơ kháng insulin và tiểu đường; rối loạn lipid máu do triglyceride là một loại chất béo trong máu ở mức cao, tăng nguy cơ bệnh tim mạch; Cholesterol xấu cao, làm gia tăng tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường tuýp 2, huyết áp cao là yếu tố gây ra nguy cơ cho các bệnh tim mạch và các biến chứng của bệnh tim mạch là đột quỵ, liệt nửa người thường dẫn đến tử vong.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, việc tiêu thụ ĐUCĐ có đường đã có xu hướng tăng cao trong những năm gần đây. Theo thống kê, tổng tiêu thụ ĐUCĐ đã tăng nhanh từ 1,59 tỷ lít năm 2009 lên 6,67 tỷ lít năm 2023 (tăng 420%).
Tiêu thụ đầu người theo đó cũng tăng nhanh tương ứng, từ mức 18,5 lít/người năm 2009, lên thành 66,5 lít/người năm 2023 (tăng 350%). Trong khoảng thời gian từ năm 2002 đến 2016, lượng tiêu thụ đồ uống có ga đã tăng gấp 3 lần, sản phẩm đồ uống thể thao và nước tăng lực tăng 9 lần và sản phẩm trà/café hòa tan tăng 6 lần.
Kết quả điều tra về sức khỏe học đường năm 2019 cho thấy có 33,96% học sinh Việt Nam sử dụng nước ngọt có ga ít nhất 1 lần/ngày; cao hơn so với năm 2013 (30,17%).
Theo Cục Y tế Dự phòng thuộc Bộ Y tế, tính trung bình, một người Việt Nam tiêu thụ khoảng 46,5g đường tự do/ngày, gần bằng mức giới hạn tối đa (50g/ngày) theo khuyến cáo của WHO và cao gần gấp đôi so với ngưỡng đường có lợi cho sức khỏe là <25g/ngày (cho một người trưởng thành có khẩu phần 2000 kcal/ngày).
Các loại ĐUCĐ khác nhau có hàm lượng đường khác nhau. Theo kết quả khảo sát của Tổ chức HealthBridge tại Việt Nam năm 2022, trên thị trường, có một số loại ĐUCĐ phổ biến có hàm lượng đường rất cao.
Trên thị trường Việt Nam, có một số loại ĐUCĐ phổ biến có hàm lượng đường rất cao
Áp thuế tiêu thụ đặc biệt với ĐUCĐ/NGK có đường, góp phần giảm các bệnh về rối loạn chuyển hóa
Có ý kiến quan ngại rằng liệu biện pháp thuế đối với ĐUCĐ có giảm được tiêu thụ ĐUCĐ, giảm được thừa cân béo phì cũng như các bệnh lý liên quan? Về vấn đề này, PGS.TS Trương Tuyết Mai – Phó Viện trưởng Viện Dinh dưỡng Quốc gia cho rằng, thuế ĐUCĐ sẽ làm tăng giá sản phẩm do vậy sẽ giảm tiêu dùng. Đánh giá gần đây của WHO chỉ ra rằng, tăng 10% giá ĐUCĐ qua thuế có thể dẫn đến giảm khoảng 10-11% mức tiêu thụ, từ đó giảm được năng lượng nạp vào và có hiệu quả trong giảm thừa cân béo phì, giúp giảm gánh nặng các bệnh không lây nhiễm.
Hiện nay, dự thảo Luật thuế TTĐB (sửa đổi) đã được đăng tải xin ý kiến góp ý rộng rãi; mặt hàng NGK theo Tiêu chuẩn Việt Nam có hàm lượng đường > 5 g/100ml đã bổ sung vào đối tượng chịu thuế với mức thuế suất 10% giá xuất xưởng. Nếu Dự thảo Luật được ban hành thì lần đầu tiên tại Việt Nam có chính sách thuế TTĐB bắt buộc đối với mặt hàng này.
Áp thuế TTĐB đối với ĐUCĐ trong đó có NGK có đường là biện pháp cần thiết trong các giải pháp can thiệp được WHO khuyến nghị nhằm giảm tiêu thụ và tác hại của các sản phẩm này đối với sức khỏe cộng đồng với 3 kết quả thiết thực, như:
- Góp phần cải thiện sức khỏe cộng đồng;
- Tăng thu cho ngân sách nhà nước;
- Giúp giảm chi phí chăm sóc sức khỏe với các bệnh có liên quan, giảm tổn thất về năng suất lao động trong tương lai.
Tính đến tháng 8/2023, đã có 117 quốc gia đã áp thuế đối với ĐUCĐ, trong số này có 104 quốc gia áp thuế TTĐB.
Kết quả chứng minh từ các quốc gia thực hiện áp thuế TTĐB với các sản phẩm ĐUCĐ cho thấy mức tiêu thụ sản phẩm này đã giảm đáng kể so với các nước không áp dụng thuế.
Ở Thái Lan, sau 2 năm thực hiện chính sách áp thuế TTĐB đối với ĐUCĐ, mức tiêu thụ ĐUCĐ trung bình/người/ngày đã giảm 2,8%; riêng với nước có ga giảm tới 17,7%. Ở Mexico, mức tiêu thụ ĐUCĐ giảm 6% trong năm đầu tiên (2014) và giảm 10% ở năm tiếp theo.
Nhiều bằng chứng thực tiễn trên thế giới chỉ ra việc giảm tiêu thụ ĐUCĐ/NGK có đường đã làm giảm tỷ lệ mắc bệnh béo phì và các bệnh không lây nhiễm liên quan đến thừa cân béo phì. Thuế TTĐB với ĐUCĐ/NGK có đường, vì vậy đã mang lại lợi ích thiết thực đối với sức khỏe cộng đồng. Cụ thể:
– Tại Mexico, ước tính chính sách thuế giúp ngăn ngừa được 239.900 trường hợp béo phì (39% trong số đó là ở trẻ em) và giảm được 61.340 trường hợp mắc bệnh tiểu đường sau 2 năm thực hiện chính sách thuế. Cũng trong thời gian này, các gia đình ở đây đã giảm 11,7% khoảng chi tiêu ĐUCĐ, ngân sách thu từ thuế tăng thêm 2,6 tỷ USD.
– Một kết quả nghiên cứu ở Anh cũng đã cho thấy áp thuế ĐUCĐ có thể giúp phòng tránh hơn 19.000 trường hợp mắc bệnh tiểu đường tuýp 2/năm và giảm gần 270.000 trường hợp sâu răng/năm.
– Một kết quả nghiên cứu ở Thái Lan cũng cho thấy áp thuế với mặt hàng này sẽ làm giảm tỷ lệ thừa cân và béo phì với các mức 1,7%, 3,8% và 4,9% trong ba năm, tương ứng với việc thực hiện các mức thuế 11%, 20% và 25%, giảm tỷ lệ mắc bệnh sâu răng 1% vào năm 2040, thậm chí xuống tới 21% nếu tích cực thực hiện.
– Còn tại Việt Nam, một nghiên cứu của Trường Đại học Y tế năm 2022 cũng đã dự đoán, nếu áp thuế TTĐB 20% trên giá bán lẻ đối với ĐUCĐ/NGK có đường thì tỷ lệ thừa cân và béo phì có thể giảm lần lượt là 2,1% và 1,5%.
Có thể nói, việc áp thuế TTĐB với ĐUCĐ trong đó có NGK có đường góp phần cải thiện sức khỏe cộng đồng, giảm chi phí chăm sóc sức khỏe với các bệnh có liên quan, giảm tổn thất về năng suất lao động trong tương lai và sau đó, giúp tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước,…