Người dày công nghiên cứu và đưa kết cấu lều trại vào những tòa lâu đài nguy nga được tặng giải thưởng kiến trúc cao quý Pritzker, trong một tình huống hết sức đặc biệt…
LỚN LÊN TRONG THỜI LOẠN LẠC
Kiến trúc sư Frei Otto, một hình mẫu lý tưởng
Ông là Frei Otto, người đi tiên phong nghiên cứu và thực hiện kết cấu nhẹ trong kiến trúc xây dựng. Sinh năm 1925 tại Siegmar (nay là Chemnitz, Đức), trong một gia đình đã sớm định hình nghề nghiệp – cả ông và người cha đều làm nghề điêu khắc. Thời niên thiếu, kiến trúc sư tương lai có chín năm theo học nghề xây dựng ở Berlin (1931-1943). Khi quân Đức Quốc xã bắt đầu yếu thế trước các lực lượng Đồng Minh trong thế chiến thứ hai, cuối năm 1944, Frei bị gọi vào lính. Vốn hồi nhỏ mê mải lắp mô hình máy bay, anh vào không quân, nhưng khi lâm trận thì Frei (trong tiếng Đức có nghĩa “tự do”) bị quân kháng chiến Pháp bắt sống, bị giam hai năm trong trại tù binh ở Chartres cách trung tâm Paris 90 km. Được giao phụ trách kỹ thuật xây dựng, anh tâm đắc kiến trúc mái vòm ở nhà thờ địa phương và đề xuất sử dụng kết cấu nhẹ.
Trong tình trạng thiếu nguyên liệu và nhu cầu cấp thiết về nhà ở, đề xuất đó được chấp thuận và Frei bắt đầu thử nghiệm dựng lều làm nơi trú ngụ cho các tù binh. Sau khi được trả về nước, anh theo học Đại học Kỹ thuật Berlin, tốt nghiệp với tấm bằng kiến trúc sư (1950) và được cấp học bổng sang Mỹ tu nghiệp nửa năm, tại đó có cơ hội làm quen với những kiến trúc sư nổi tiếng đương thời như Erich Mendelsohn, Mies van der Rohe, Richard Neutra và Frank Lloyd Wright.
Khu liên hợp thể thao Olympic ở Munich
Năm 1952 Frei Оtto mở văn phòng kiến trúc riêng, nghiên cứu bong bóng xà phòng để thiết kế các “màng mỏng được căng bằng cáp”. Năm 1954 ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ Mái treo cáp căng, tiếp cận đề tài này bằng sự phân loại mạch lạc các vỏ bọc công trình xây dựng ra những dạng mái treo, lưới, cáp căng, ô dù, vòm, vỏ khí nén… Nếu xét về chất liệu và độ chịu lực, chúng mang nặng tính kỹ thuật hơn là nghệ thuật nhưng nếu biết làm, kết cấu nhẹ có thể trở thành cây cầu dẫn đến giá trị thẩm mỹ.
Theo ông, thiết kế lâu đời nhất là các dạng nhà đầu tiên được con người sơ khai xây dựng, vừa tạm thời vừa cố định, vừa đẹp vừa đa năng, cho nên công nghệ xây dựng mới phải thể hiện được đa dạng hình thức công trình, phải uyển chuyển hơn kết cấu phẳng, phải chịu được các tải trọng lớn, phải đảm bảo tính kinh tế. Năm 1957, vị tiến sĩ trẻ sáng lập tại Berlin Trung tâm Cấu trúc Nhẹ với mục đích nghiên cứu kỹ thuật xây dựng mới phục vụ các nhu cầu mới của thời đại, và 12 năm sau, cơ sở này trở thành Viện Cấu trúc Nhẹ thuộc trường Cao đẳng Công nghệ Stuttgart.
NHỮNG TÒA LÂU ĐÀI ĐỘC ĐÁO
Cung Tuwaiq ở Saudi Arabia
Frei Otto được quốc tế công nhận là người tạo ra kết cấu màng mỏng và cáp căng để che công trình xây dựng. Sau chiến tranh, ông làm một khu nhà ở xã hội, sử dụng được ba mươi năm có lẻ và trở thành hình mẫu để làm những khu nhà cấp thời dành cho nạn nhân vùng gặp thiên tai. Sang thập niên 1960, ông say mê nghiên cứu thiên nhiên, từ những đường gân lá câу đến… mạng nhện, từ đó rút ra triết lý: con người không nên để lại trên mặt đất những dấu vết nặng nề từ sự tồn tại của mình. Công trình đáng kể đầu tiên đạt được sự tán thưởng và ủng hộ của cộng đồng là ba tòa pavilion có tên “Khiêu vũ” (1955) thiết kế cho chương trình sân vườn ở thành phố Cologne, các pavilion từ đó cho tới nay vẫn đứng vững. Mười hai năm sau, ông làm pavilion của Tây Đức tại Triển lãm quốc tế Montreal 1967 (Canada).
Nhưng công trình chủ yếu của đời ông phải là Khu liên hợp thể thao Olympic Munich 1972. Nếu Olympic lần trước tổ chức tại nước Đức Quốc xã (1936) để Hitler phô trương, thì khu liên hợp thể thao Olympic Munich lần này tạo nên ấn tượng trái ngược: đặt tại một thao trường cũ gần bờ biển, mặt bằng không lấy gì làm rộng, nhưng dưới một mái che nhẹ nhõm có đủ: nhà thi đấu, sân vận động chứa được 80.000 người, bể bơi, trung tâm phát thanh truyền hình cho 54 đài, 20 phòng hậu kỳ, 80 phòng cho các nhà biên tập và bình luận… Tối thiểu về mặt xây dựng nhưng tối đa về độ nhẹ nhõm thanh thoát, hoành tráng nhưng dễ thu dọn. Ở đây, mục đích của ông là tối ưu hóa hệ kết cấu với mức chi phí tối thiểu về vật tư, về thời gian và mức tối đa về công suất phục vụ, mà chi phí được hiểu một cách tổng hợp là công sức, nguyên liệu vật tư, năng lượng…
Năm 1982, sau khoảng một năm thiết kế, gần ba năm thi công (1983-1985), Otto làm cung Tuwaiq ở Riyadh (Saudi Arabia), một công trình đa công năng, vừa là câu lạc bộ cho các nhà ngoại giao, vừa là địa điểm tổ chức những liên hoan văn hóa. Còn hàng chục công trình khác nữa, như ngôi nhà sinh thái không vỏ không mái Oekohaus ở Berlin (1988), như công trình tôn tạo và hoàn thiện một cung điện ở Tbilisi cổ kính. Otto cũng chính là người hợp tác với kiến trúc sư Shigeru Ban để thiết kế cho Nhật Bản pavilion tại Expo năm 2000 ở Hanover (Đức). Đó là công trình cuối đời của ông và là một trong những tác phẩm giúp Shigeru Ban nhận giải Pritzker 2014. Ông lừng danh chính vì sự độc đáo của những vỏ bọc công trình. Những công trình từ nửa thế kỷ trước ngăn nắp như nội thất xe hơi hoặc kỹ thuật quân sự, nhưng hàm chứa ý đồ kiến trúc nghệ thuật sắc nét thực dụng.
Pavilion Nhật Bản tại Expo năm 2000 ở Hanover
Ngoài việc thiết kế tại văn phòng kiến trúc của mình, Otto còn tham gia giảng dạy và xuất bản rất nhiều sách: Kết cấu chịu kéo (1962), Hình thức – lực kéo – trọng lượng (1979), Kết cấu tự nhiên (1982), Quá trình hình thành hình dáng trong tự nhiên, kỹ thuật và kiến trúc (1988)… Năm 1980, ông được Đại học Bath (Anh) phong Tiến sĩ Danh sự về khoa học.
ĐƯỢC GIẢI NHƯNG CHƯA KỊP NHẬN
Sáng tạo của Otto đã mang lại cho ông nhiều giải thưởng cao quý trong lĩnh vực kiến trúc: huy chương Thomas Jefferson (mang tên vị tổng thống thứ ba của nước Mỹ, 1974), giải thưởng Aga Khan (mang tên thủ lĩnh tinh thần của Saudi Arabia, hai lần 1980, 1998), giải thưởng Wolf về Nghệ thuật (của Israel, 1996-1997), Huy chương vàng RIBA (của Viện Kiến trúc Hoàng gia Anh, 2005), giải thưởng của Hoàng gia Nhật Bản (2006) và giải thưởng Pritzker 2015. Ông là kiến trúc sư thứ 40 và là người Đức thứ hai được giải này, sau Gottfried Böhm.
Giải thưởng Pritzker – được coi như “giải Nobel về kiến trúc” và chỉ trao cho người đang sống – thường được công bố kết quả vào hạ tuần tháng ba hằng năm, nhưng riêng năm 2015 nghi thức đã được tiến hành sớm hơn vì không thể đợi. Frei Otto qua đời hôm 9-3-2015, nhưng trước đó, đại diện của giải đã đến thăm ông già 89 tuổi này và thông báo quyết định, theo đó ông là người sở hữu giải Pritzker 2015.
Ban tổ chức giải Pritzker đánh giá ông là người tiên phong trong việc kết hợp các kết cấu nhằm tạo ra những không gian sáng tạo chưa từng có, như kết cấu khí lực, kết cấu mái treo cáp căng, sử dụng vật liệu nhẹ để xây sân vận động khác với thế hệ đi trước. Đăc biệt, ông còn kịp bình luận: “Tôi làm việc đâu để nhằm lĩnh giải thưởng. Với tư cách kiến trúc sư, tôi chỉ có mục đích tạo ra những dạng nhà mới có thể giúp những người nghèo khó, đặc biệt là những nạn nhân của thiên tai. Nếu còn thời gian, tôi còn tiếp tục làm việc như mọi khi để giúp loài người”.
Dành phần lớn cuộc đời để nghiên cứu, thử nghiệm và phát triển các kết cấu nhẹ, độc đáo, mới lạ, chủ động sử dụng các vật liệu ít tác động tới môi trường, kiến trúc sư Frei Otto đã dành phần lớn cuộc đời để nghiên cứu, thử nghiệm và phát triển các kết cấu lạ. Sự nghiệp của ông được đánh giá là một hình mẫu lý tưởng để các thế hệ kiến trúc sư noi theo, đồng thời những công trình mang tính cách mạng của ông sẽ còn tạo ảnh hưởng lâu dài trong phát triển xây dựng.
NGUYÊN ĐĂNG