Chiếc ba lô để ngay dưới chân giường.
Chốc chốc, anh chợt nghĩ ra thêm một thứ nào đó, một bịch thuốc cho các bệnh thông thường, một ít lương khô chẳng hạn… lại mở ba lô nhét vào. Chiếc ba lô chật căng, tròn vo như một quả bóng. Chốc chốc, anh lại cầm hai chiếc quai, nhấc lên, đặt xuống, cố lèn chặt các vật dụng để có thêm một khoảng trống, phòng khi cần một món đồ nào đó. Tất cả gia tài chỉ trong một chiếc ba lô thôi.
Anh đi tàu đêm. Anh vốn thích đi tàu hơn đi ô tô, thích những chuyến tàu đêm hơn là ban ngày. Có lần, H hỏi, vì sao. Anh đáp, anh không biết.
Vì sao anh tha thiết với TD, anh cũng không hiểu thật rõ ràng. Vì những rừng thông bạt ngàn, vì những ngọn thác đổ xuống như tự trời cao, vì dòng sông lặng lẽ chảy qua những xóm thôn nhỏ nhoi, vì một mùa hoa hồng thắm trải dài trên những triền đồi… chăng. Anh đã đọc những thông tin về TD trên một tờ báo chuyên quảng bá du lịch, vào buổi chiều oi nóng ngồi trong quán cà phê quen nơi góc đường.
Đợi H.
Cô không đến.
Nhiều ngày sau cô cũng không đến.
Anh vẫn ghé quán. Người chủ quán mang đến một phin cà phê bằng gốm sứ Bát Tràng màu đen, với một đường viền đỏ thanh mảnh quanh miệng ly, có khi hỏi han vài câu, có khi nhìn ra cửa như đợi H cùng với anh rồi im lặng trở về quầy. Cái quầy được làm bằng gỗ tạp, sơn màu nâu, chất chứa không biết bao nhiêu chai lọ cao thấp, bao nhiêu hộp vuông hộp tròn nhưng ngăn nắp, sạch sẽ.
Cô không uống cà phê, bao giờ cũng là ca cao sữa nóng.
Lỡ hết ca cao thì uống trà.
Cũng nóng.
Có lần, anh hỏi mượn cuốn tạp chí du lịch ấy nhưng chủ quán cho biết mới gom bán ve chai cùng một số đồ đạc cũ. Ông bảo sắp sang quán để về quê, về, chăm con gà con vịt, trồng vài luống rau cũng đủ sống. Im lặng một chút, ông nói thêm, già rồi, giọng hờ hững như nói về một việc không mấy liên quan.
Từ khi quán đổi chủ, anh không ghé lại. Anh tìm một quán khác, nằm ở khúc quành trên đường tới sở làm. Quán dùng phin nhôm, đặt trên ly thủy tinh, nhìn thấy từng giọt, từng giọt màu nâu nhỏ xuống. Có thể có một âm thanh nào đó khi giọt cà phê rơi xuống chạm vào đáy thủy tinh, có thể có một gợn sóng nào đó trên mặt nước nâu sánh, nếu mình muốn nghe, muốn nhìn, anh nghĩ vậy. Chủ quán là một người đàn ông trung niên, trông vẻ ngoài hơi bặm trợn nhưng là người lành tính, kiên nhẫn và chiều khách. Có lần, bất thình lình hỏi anh, sao cậu đi một mình mãi vậy. Anh cười cười, uống cà phê một mình ngon hơn. Ông ta cũng cười, chùi tay vào chiếc tạp dề màu xanh rồi đưa ngón cái lên, một phát kiến vĩ đại. Anh ngờ rằng ông vốn là một viên chức nhà nước, vì lẽ nào đó mà bỏ việc, mở cái quán này.
Anh gặp V ở đây. Bữa đó quán đông, cô gái đến bên anh, xin lỗi, tôi có thể ngồi cùng? Anh không rời mắt khỏi trang báo, mời chị. Không hiểu sao lại nói thêm, “cái quán này nào phải riêng ai”**. Cô gái bật cười. Sau này, cô cho rằng họ quen nhau do câu nói của anh, anh lại bảo vì tiếng cười của cô. Chủ quán ghé vào tai anh, thế nào, uống cà phê hai người ngon hơn chứ. Thỉnh thoảng ông lại hỏi, thế nào, rồi bỏ đi, không đợi trả lời. Hai người gọi ông chủ quán là “ông thế nào”. Họ hẹn nhau, mai, ở “ông thế nào” nhé.
Có lần anh hỏi cô có biết TD không. Ngay lúc hỏi, anh thấy nhớ H kinh khủng. Anh cho rằng trên mặt anh đã hiển hiện nỗi nhớ nhung ấy. V dừng tay khuấy cà phê, anh có kỷ niệm buồn ở đó hả. Anh đáp, không. Đó là một lời đáp thành thực nhưng không hoàn toàn đúng. Anh không hiểu tại sao mỗi khi nhắc đến TD anh lại nhớ H và mỗi khi nhớ cô, anh lại nhớ đến TD, một vùng đất ở đâu đó thật xa, anh chưa từng đến.
Anh nằm mơ thấy H. Thực ra là nằm mơ thấy một nơi mà anh nghĩ là TD với một dòng suối trong vắt chảy len qua những vùng đồi hoa cải trắng. H đi trước anh một quãng ngắn. Cô bước đi thong thả giữa những vạt hoa, tay cầm chiếc mũ rộng vành màu nâu nhạt. Anh nghĩ chỉ trong giây lát sẽ đuổi kịp cô nhưng khoảng cách giữa họ không hề thay đổi.
Cô vẫn cách anh một quãng ngắn.
Rất ngắn.
Anh gào to tên H. Cô ngoảnh lại, nhìn anh như nhìn một người lạ… Anh giật mình vì tiếng chuông trên tháp cao của nhà thờ. Khi tỉnh hẳn, anh mới biết đó là tiếng chuông của đồng hồ báo thức. Có thể nó đã reo rất lâu rồi, khi anh còn mải đuổi theo H, gào gọi tên cô.
V không đến như đã hẹn. Cô nhắn tin: Em đang ở TD.
Mãi sau này, anh mới hiểu rằng cô chỉ muốn nói đến một chuyến đi xa, đến một nơi xa lạ, ở một xứ sở cô chưa từng biết. Hình như cô khá thành công trong việc kiếm sống ở nơi ấy. Khi gặp anh, cô đã có dự tính cho chuyến đi. Anh chỉ tình cờ lọt vào bản kế hoạch của cô, nằm ở chỗ ngoặc ra bên lề. Vài năm đầu, cô gửi cho anh những bưu ảnh phong cảnh nơi cô sống và vài dòng thăm hỏi. Trong số đó, có một cảnh đồi núi mây phủ trắng với câu hỏi: có giống TD của anh không.
Hình như đó là tấm bưu ảnh cuối cùng anh nhận được từ V.
Nếu anh không tình cờ bật TV vào lúc 19 giờ 15 hôm ấy và nhìn thấy thông tin về trận lũ quét ở TD thì hẳn vùng đất ấy đã chìm lấp đâu đó trong mớ ký ức hỗn độn của cuộc đời anh. Anh nắm chặt chiếc remote, nhìn sững vào cảnh những ngôi nhà đổ nhào, những thân cây bật gốc, những nhóm người phong phanh áo xống, ôm theo mình vài món đồ ít ỏi vừa giành giật với cơn lũ cuốn… Nước ào ạt, cuồn cuộn, hung dữ. Con người nhỏ nhoi, mong manh như những chiếc lá, cơ hồ có thể bị cuốn đi bất cứ lúc nào. Tự nhiên anh nhớ đến cái chết đau đớn của H và chồng con trong cơn bão tuyết. Có một chỗ nào đó trong ngực dội lên cơn đau.
Anh quyết định đến TD.
Trưởng phòng hỏi, cậu điên hả.
Anh cúi xuống khóa ngăn tủ tài liệu, không đáp.
Vào giờ chót, anh bỏ bớt đồ đạc trong ba lô và mua thêm mấy thùng mì gói, mấy chục ký gạo, nhờ taxi chở ra ga. Anh là hành khách duy nhất mang vác cồng kềnh. Anh không hiểu sao những người khác lại có được sự thảnh thơi, vui vẻ trên chuyến tàu này. Họ kháo chuyện ầm ĩ rồi lăn ra ngủ. Cô gái ngồi cùng băng ghế, dựa hẳn vào vai anh, phả vào anh mùi thơm của một loại dầu gội có hương sả.
Anh khoanh tay trước ngực, nhắm mắt, cố tìm giấc ngủ nhưng không sao ngủ được.
Hai mắt khô khốc.
Và mỏi.
Chập chờn trước anh là ánh mắt vô hồn của một cụ già nhìn như bị thôi miên dòng nước ngầu đục sôi réo. Anh xoay người, khẽ nâng đầu cô gái tựa vào thành ghế rồi bước ra đầu toa. Một cơn gió mát lạnh táp vào mặt. Trời trong vắt, không một gợn mây. Vài vì sao nhấp nháy nơi xa. Trong một đêm ngồi trên sân thượng nhìn trời sao, H ngẩng đầu, hai tay đan lại sau gáy, giọng trầm ngâm, thế đấy, biết đâu chỉ lát nữa sẽ là mưa dập gió vùi, chỉ lát nữa bầu trời kia sẽ chỉ là một mảng tối tăm mù mịt. Con người thật ngạo mạn, lúc nào cũng tưởng mình chế ngự được thiên nhiên. Gần đây, anh biết tin H đã mất cùng chồng và đứa con trai nhỏ trong một trận bão tuyết. Mất phương hướng, chiếc xe đã đâm sầm vào trụ bê tông ven đường…
Anh rùng mình.
Nếu không có nhân viên đường sắt mời về chỗ ngồi, hẳn anh sẽ còn đứng đó cả đêm. Hình như có một vụ buôn lậu trên chuyến tàu ngược. Họ yêu cầu tất cả yên vị. Một tốp ba người đi xét vé, kiểm tra giấy tờ tùy thân, kiểm tra hành lý… Người cao lớn đập tay lên chiếc thùng dưới ghế, hất hàm hỏi anh, gì thế này. Mì gói và gạo, anh đáp. Ông ta cười gằn, thời buổi này mà còn mang vác những thứ này đi đâu cơ chứ. Cô gái choàng dậy, ngơ ngác, có chuyện gì vậy, rồi vội vàng nhón chân lấy chiếc va li nhỏ trên giá, mở tung ra. Mấy bộ váy áo màu sắc sặc sỡ, sắp xếp lộn xộn như vội vàng quẳng vào đó trước khi ra ga. Vừa đóng va li cô vừa nói như phân trần, em về quê dự lễ ăn hỏi của đứa em. Thằng em em ương ngạnh lắm, bố mẹ em muốn cột chân nó. Anh bật cười, liệu có cột được không. Cô gái đang định nói điều gì thì bị cắt ngang bởi tiếng kêu gào, oan cho tôi, oan cho tôi… ở toa bên cạnh. Cả toa của anh, cả mấy toa khác nhốn nháo đổ dồn về toa có tiếng kêu, buôn cái gì đấy, ma túy hả, không, thuốc phiện, đếch phải, ngà voi đấy, không, hình như là súng, không, tiền giả, xúi quẩy, thoát thì đã có cả đống tiền, phi thương bất phú, cả làng tôi bỏ ruộng, nhào ra phố, buôn buôn bán bán, chả mấy chốc mà lên đời, nhà cao cửa rộng, ô tô, xe máy chạy rầm rầm…
Anh đứng sững giữa lối đi chật hẹp.
Hàng mấy trăm con người trên chuyến tàu, không một lời nào nhắc đến TD, không một ai nhắc đến cơn lũ tàn khốc, không một ai tỏ lời xót xa cho bà cụ kia, cho những đứa nhỏ kia… Cảm giác lẻ loi khiến anh như muốn bật khóc. Cô gái, người duy nhất không tìm cách chen chân qua toa bên cạnh, níu tay anh, kệ họ, buôn lậu thì có gì mà xem, anh cố ngủ một chút đi.
Nửa đêm rồi.
Gần đây anh mất ngủ.
Cứ nửa đêm là trở dậy.
Bác sĩ bảo anh nên đi bộ vào buổi tối. Nhưng làm sao đi trong con hẻm chật chội, hai người đi ngược chiều thì một người phải nép sát vào tường hay ra ngoài phố, nơi vỉa hè la liệt hàng quán, lòng đường ken chặt xe cộ… Anh trả lời bác sĩ.
Thực ra thì cũng có một công viên nhỏ cách nhà khoảng nửa cây số nhưng nghĩ đến cảnh người ta dồn vào đó, đi lại rầm rập như đi hành quân, lại ngại. Đành thúc thủ trong nhà, nửa đêm trở dậy, ngồi thu lu xem TV hoặc đọc sách đợi sáng.
Anh bảo cô gái, đây là giờ thức dậy của tôi. Cô đặt chiếc túi làm gối, ngủ một giấc lấy sức. Tôi ra ngoài hút thuốc.
Gió thốc dữ dội.
Không sao bật được lửa.
Anh nhét cả thuốc cả bật lửa vào túi ngực, khoanh tay nhìn hai chiếc móc sắt nối toa dập dình theo nhịp con tàu, tự nhiên nghĩ, nếu chúng bất thần tuột ra… Ờ, có cái gì là không thể. Lại nhớ đến tai họa thảm khốc của gia đình H. Hồi nghe tin, anh bần thần suốt một thời gian, mãi mới hồi tâm ghé thăm cha mẹ cô, thắp một nén nhang.
Trong ảnh, H như hơi mỉm cười.
Đôi mắt đen có một thoáng nước.
Như vẫn vậy.
Để thoát khỏi những ý nghĩ buồn bã, anh ngồi tựa lưng vào vách toa, nghĩ cách di chuyển từ ga cuối cùng Trại Cau đến TD. Chỉ vài chục cây số nhưng trong lúc mưa lũ, chắc cũng chẳng dễ dàng. Có thể thuê một chiếc Minsk, loại xe máy cực khỏe dân miền cao thường dùng, có thể quá giang một xe tải nào đó hay tìm một chú ngựa thồ…
Gió mỗi lúc một dữ.
Tưởng có thể bứt người ra khỏi con tàu.
Đành phải quay vào. Vừa bước đến cửa toa, loa phóng thanh rọt rẹt rồi vang lên giọng nói của phát thanh viên: Xin quý khách lưu ý, xin quý khách lưu ý, do mưa lũ, một đoạn đường sắt đã bị sạt lở nghiêm trọng. Vì vậy, tàu chỉ có thể đến Trại Chuối. Xin quý khách lưu ý. Cả toa tàu bừng dậy, những đôi mắt ngái ngủ nhìn nhau ngơ ngác, cái gì vậy, mấy giờ rồi, mình đang ở đâu đây, làm sao về Trại Cau… Chỉ rặt những câu hỏi, không có câu trả lời. Cô gái dụi mắt, giờ làm sao anh. Anh bối rối nhìn chỗ mì gạo của mình.
Đúng ba giờ sáng, tàu dừng lại ở ga Trại Chuối.
Anh vác hành lý, theo mọi người vào ga. Căn phòng nhỏ bỗng chốc ken chặt người.
Anh đứng tựa cửa, nhìn họ, ngạc nhiên trước một đám đông vừa ồn ào vì vụ buôn lậu chợt lặng lẽ nhường ấy.
Trưởng ga, một người đàn ông thấp bé, lọt thỏm trong bộ đồng phục màu xám, cầm loa, nói to hết cỡ: Thưa quý vị, do thời tiết thất thường, không những đường sắt hư hại mà đường bộ cũng bị băm nát. Có ai đó ngắt lời, chúng tôi ngồi chết dí ở đây à. Một giọng phụ nữ, làm ăn kỳ cục, sao không thông báo trước. Như không nghe thấy những chất vấn, tiếng loa vang lên: Các vị chỉ có một lựa chọn, hoặc quay về hoặc ngồi đợi cho đến khi sửa xong đường. Bao giờ xong, vài ba người cùng lên tiếng. Cái loa đáp: Không thể biết chính xác. Ai đó ở cuối phòng hét lên: Đồ điên. Như được châm ngòi, cả cái khối câm nín ấy nổ bùng, rào rào đứng lên, rào rào la ó…
Khi họ bình tĩnh lại, tay trưởng ga đã biến mất.
Người nọ nhìn người kia rồi lục tục thu xếp chỗ nghỉ. Lại tranh cãi, dành giật chỗ sàn xi măng chật hẹp, đen xỉn. Anh có ý tìm cô gái nhưng không thấy. Có thể cô đã tìm cách nào đó về cho kịp đám hỏi. Vả lại, nhà cô không xa Trại Chuối, nơi tàu dừng lại.
Anh mang hành lý vào phòng trưởng ga.
Phòng trống không.
Cầm lấy cây bút dạ lăn lóc trên bàn, anh ghi lên thùng mì và bao gạo: Xin quý vị chuyển tới TD sớm nhất có thể. Cám ơn.
Khoác ba lô lên vai. Anh rời khỏi ga.
Có mấy lối đi mờ mờ trước sân. Anh chọn lối bên trái, nơi mắt anh chạm phải một bóng người ngồi thu lu bên vệ đường. Đến gần, hóa ra là một tảng đá lớn. Anh đưa tay chạm vào mặt đá lạnh buốt, chợt khuỵu xuống vạt cỏ rồi thiếp đi, mơ hồ nghe thấy giọng của ai đó, điều ta muốn chỉ cách một tầm tay nhưng đó là một khoảng cách không thể vượt qua. Anh đáp, không phải một tầm tay mà một ga tàu. Giọng nói nhất quyết, một tầm tay. Anh hét lên, một ga tàu, một ga tàu, một ga tàu, rồi bừng tỉnh.
Lạnh kinh khủng. Anh nghĩ anh tỉnh dậy vì quá lạnh và đói. Vừa gặm mẩu bánh mì khô cứng vừa nhìn ngắm tảng đá, nơi anh đã tựa mình trong giấc ngủ ngắn. Tảng đá màu đen xám khá lớn, vượt khỏi đầu người khi ngồi, có một phía nhô ra. Anh vốn thích đá và cỏ. Anh ao ước có một mảnh vườn đầy có với những khối đá lớn. H bảo, hai thứ đó chẳng có gì gần nhau, thậm chí đối nghịch với nhau.
Dù vậy, đi nơi này nơi khác, H vẫn mang về cho anh những phiến đá. Anh có một ngăn trên tủ sách để bày đá. Phiến đá sau cùng H mang đến cho anh là phiến gỗ hóa thạch có những đường vân tuyệt đẹp. Anh đặt phiến đá trên chiếc giá đỡ bằng nhựa. Đôi lần một ánh mắt, một làn môi, một khuôn mặt thoáng hiện qua những vân đá rồi tan nhòa rất nhanh, không sao tìm thấy lại. Hình như mọi thứ của cuộc đời mình cũng vậy. Thoáng hiện ra rồi tan nhòa… Vừa nghĩ vẩn vơ vừa thu mình tìm một thế ngồi cho đỡ rét, anh gần như giật mình khi chợt nghe thấy tiếng ho của ai đó ngay sát bên mình.
Ngẩng lên, bắt gặp nụ cười hiền hậu của một ông già, chào bác, bác đi đâu sớm vậy. Ông lão nén lại cơn ho, giọng hụt đi, ra ga đón đứa cháu mà không thấy. Chắc nó sợ bão lũ mạn ngược. Hai tiếng “bão lũ” khiến anh tỉnh táo hẳn, bác có biết lối đi tắt đến TD không. Chi vậy, ông lão nhướng mắt nhìn anh, có chút chi như sự ngờ vực. Anh lúng túng, dạ, cháu chỉ hỏi để biết. Ông lão tì tay lên tảng đá, ho rũ rượi, giọng ngắt quãng, làm gì có, toàn rừng rú sông suối, lấy đâu ra đường với lối, cậu quay về đi, nghe đâu sắp có trận lũ mới, lũ chồng lũ. Chưa dứt câu ông đã bỏ đi, lưng còng xuống vì cơn ho rồi mất hút trên con đường vắng còn mờ sương.
Anh về đến thành phố vào xế trưa.
Đeo chiếc ba lô nặng trĩu, anh bước vào cái ngõ nhỏ, dán người vào một bên tường, mắt nhức nhối với những dòng chữ Khoan cắt bê tông, Cấm đổ rác, Cấm đái bậy, Cầm giấy tờ xe chính chủ, lên tới 90% giá trị, Nhà cho thuê nguyên căn… nhằng nhịt, ngang dọc ở mặt tường đối diện. Cái hẻm dài vài chục mét chợt như bất tận, tưởng không bao giờ thoát khỏi.
Bao nhiêu năm đi về trong cái ngõ này, đây là lần đầu tiên anh nhận ra sự nhếch nhác, bê bối, ngột ngạt của nó.
Vào phòng, anh đứng sững trước những hình ảnh trên màn hình TV. Con nước lũ đục ngàu, cuồn cuộn, hung dữ, những thân cây trôi dạt, những ngôi nhà sụt lở, những con người phong phanh áo xống tay ôm khư khư bọc đồ đạc, những ánh mắt vô hồn… Phải mất một lúc lâu anh mới hiểu ra, anh đã không tắt TV khi rời nhà và đây là thông tin một cơn lũ mới, lũ chồng lũ, theo cách nói của ông già ở Trại Chuối.
Tiếp ngay sau tin lũ lụt là một chương trình ca nhạc. Mấy chục nam thanh nữ tú áo quần xanh đỏ tím vàng nhảy nhót, gào thét như đang lên đồng. Anh với tay lấy chiếc remote trên mặt bàn, vô tình làm xoay phiến gỗ hóa thạch ra phía cửa sổ. Dưới tia nắng gay gắt, một khuôn mặt phụ nữ hiển hiện trên mặt đá. Mái tóc bạc trắng, đôi mắt mở to, một nếp hằn trên vầng trán, một nét cười mơ hồ nơi khóe miệng…
Tỳ cằm lên hai bàn tay nắm chặt, anh nhìn như bị hút vào khuôn mặt trên đá, giữa mớ âm thanh hỗn loạn của những chàng trai cô gái trên TV. Họ không dừng lại. Họ không chịu dừng lại.
Anh không biết mình đã thiếp đi bao lâu, chỉ biết đã chiều muộn. Trong căn phòng mờ tối, những âm thanh náo loạn vẫn không dứt (không biết, vẫn của nhóm người cũ hay của một nhóm mới vừa bắt đầu). Vậy mà khi anh đưa remote về phía TV, mọi âm thanh chợt tắt lịm.
Một dòng thác ngầu đỏ tràn lấp toàn bộ màn hình.
Truyện ngắn của Ý Nhi
Cảm giác hóa thạch trước khi sự vật hóa thạch*