Hiện nay, theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018 đã được Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số 34/2017/NQ-QH14 ngày 08 tháng 6 năm 2017, Cơ quan soạn thảo đang chuẩn bị dự án Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia để trình Chính phủ và Chính phủ sẽ trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp cuối năm 2018. Đây là một dự án có liên quan trực tiếp đến các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh rượu, bia và người tiêu dùng. Chúng tôi xin tham gia một số ý kiến về sự cần thiết xây dựng luật, về tên gọi của luật, về đánh giá tác động của luật và về việc thành lập Quỹ nâng cao sức khỏe cộng đồng.
Kiểm tra chất lượng bia tại Phòng Kỹ thuật, Nhà máy Bia Sài Gòn – Củ Chi
1. VỀ SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG LUẬT
Cơ quan soạn thảo nêu ra một số căn cứ để xây dựng dự án Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia, đó là:
– Thực trạng sử dụng và sản xuất, kinh doanh rượu, bia;
– Tác hại của rượu, bia;
– Thực trạng pháp luật về phòng, chống tác hại của rượu, bia và
– Tình hình thế giới và khu vực về phòng, chống tác hại của rượu, bia.
Tuy nhiên, những căn cứ mà Cơ quan soạn thảo nêu ra để khẳng định sự cần thiết phải xây dựng một đạo luật về phòng, chống tác hại của rượu, bia cần phải được trao đổi và xem xét một cách thấu đáo.
Dây chuyền chiết chai hiện đại của Nhà máy Bia Sài Gòn – Củ Chi
Thứ nhất, về thực trạng sử dụng và sản xuất kinh doanh rượu, bia: Cơ quan soạn thảo cho rằng: “Trong những năm qua, ngành rượu, bia và đồ uống có cồn ở nước ta đang rất phát triển với tốc độ gia tăng nhanh về sản lượng qua các năm…”. Thực tế tốc độ gia tăng sản lượng bia trong các năm từ 2014 đến nay lại đang giảm dần. Năm 2014, sản lượng bia là 3.140 triệu lít, năm 2015: 3.464,5 triệu lít tăng 10,35% so với năm 2014, năm 2016: 3.786,7 triệu lít tăng 9,26% so với năm 2016 và năm 2017: 4.000,6 triệu lít tăng 5,65% so với năm 2016.
Tại quy hoạch phát triển ngành bia, rượu, nước giải khát Việt Nam đến năm 2025 tầm nhìn đến năm 2035 do Bộ trưởng Bộ Công Thương phê duyệt tại Quyết định số 3690/QĐ-BCT ngày 12 tháng 9 năm 2016, Bộ Công Thương đã xác định mục tiêu tổng quát: “Chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành theo hướng giảm dần tỷ trọng ngành bia, rượu; tăng dần tỷ trọng ngành nước giải khát.” và mục tiêu cụ thể được nêu trong Quy hoạch là:
“Mục tiêu cụ thể:
– Năm 2020, cả nước sản xuất khoảng 4,1 tỷ lít bia; 350 triệu lít rượu (trong đó rượu sản xuất công nghiệp chiếm 35%); 6,8 tỷ lít nước giải khát. Kim ngạch xuất khẩu đạt 450 triệu USD.
– Năm 2025, cả nước sản xuất khoảng 4,6 tỷ lít bia; 350 triệu lít rượu (trong đó rượu sản xuất công nghiệp chiếm 40%); 9,1 tỷ lít nước giải khát. Kim ngạch xuất khẩu đạt 600 triệu USD.
– Năm 2035, cả nước sản xuất khoảng 5,5 tỷ lít bia; 350 triệu lít rượu (trong đó rượu sản xuất công nghiệp chiếm 50%); 15,2 tỷ lít nước giải khát. Kim ngạch xuất khẩu đạt 900 triệu USD.”
Như vậy, Quy hoạch của Bộ Công Thương đã xác định giảm dần tốc độ tăng trưởng của ngành bia và giữ nguyên sản lượng ngành rượu, phù hợp với Chính sách quốc gia về phòng, chống tác hại của lạm dụng đồ uống có cồn.
Thứ hai, về tác hại của rượu, bia: Cơ quan soạn thảo cho rằng cứ sử dụng rượu, bia bất kể ở mức độ nào đều có tác hại. Tuy nhiên có nhiều tài liệu đã chỉ ra rằng, nếu sử dụng rượu, bia một cách hợp lý thì không những không có hại mà còn có lợi cho sức khỏe. Chỉ có lạm dụng rượu, bia mới có tác hại mà thôi.
Ngành bia, rượu là một ngành có nhiều đóng góp cho ngân sách nhà nước, năm 2017 toàn ngành nộp ngân sách khoảng 50 ngàn tỷ đồng và giải quyết công ăn, việc làm cho hàng triệu lao động, góp phần ngăn chặn hàng lậu, hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng.
Uống rượu, bia còn là nét văn hóa ẩm thực lâu đời của các dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Vì vậy, cần đánh giá khách quan về tác hại của rượu, bia đối với sức khỏe của con người và đối với xã hội để góp phần hạn chế việc lạm dụng rượu, bia đồng thời tạo điều kiện cho ngành sản xuất ổn định, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của các tầng lớp nhân dân.
Thứ ba, về thực trạng pháp luật về phòng, chống tác hại của rượu, bia: Theo báo cáo của Cơ quan soạn thảo hiện nay có đến 85 văn bản từ Thông tư của Bộ trưởng đến Luật của Quốc hội có các quy định liên quan đến quản lý sản xuất và kinh doanh rượu, bia, trong đó có các đạo luật như: Luật Đầu tư, Luật Thương mại, Luật Quảng cáo, Luật An toàn thực phẩm, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật xử lý vi phạm hành chính…
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chương trình quốc gia về phòng chống tác hại của lạm dụng đồ uống có cồn (Quyết định số 244/QĐ-TTg ngày 14 tháng 02 năm 2014).
Hiện nay, rượu không rõ nguồn gốc xuất xứ, rượu có chứa các chất độc hại là nguyên nhân gây ra các vụ ngộ độc và ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng, ảnh hưởng tới ngân sách nhà nước vì không thu được thuế, cần phải được quản lý chặt chẽ thì lại chưa được quản lý một cách hữu hiệu.
Vì vậy, cần có báo cáo đánh giá một cách chi tiết kết quả thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật này để xác định những mặt hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế đó. Tại sao có nhiều văn bản quy phạm pháp luật như vậy mà chưa quản lý tốt việc sản xuất, kinh doanh rượu, bia như ý kiến của cơ quan đề xuất. Nếu có thể khắc phục được các hạn chế đó thì có cần thiết phải ban hành một đạo luật mới hay không.
Thứ tư, về tình hình thế giới và khu vực về phòng, chống tác hại của rượu, bia: Cũng theo Cơ quan soạn thảo thì hiện nay chưa có quốc gia nào trên thế giới ban hành Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia. Ở Đông Nam Á chỉ có Thái Lan có Luật Kiểm soát rượu, bia. Và cũng chỉ có một số ít quốc gia khác có đạo luật riêng về kiểm soát rượu, bia như: Lithuania có Luật về kiểm soát chất có cồn; Srilanka có Luật về cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm soát rượu, bia, thuốc lá và Pháp có Luật Loi E’vin năm 1991.
Từ những phân tích trên đây, một vấn đề đặt ra là có cần thiết phải ban hành một đạo luật riêng về phòng, chống tác hại của rượu, bia hay không? Bởi vì việc xây dựng một đạo luật đòi hỏi phải đầu tư cả về vật chất và thời gian của Quốc hội, của cơ quan soạn thảo và nhiều cơ quan khác, trong khi bản thân đạo luật đó chưa có những quy định thật sự mới mà chủ yếu là hệ thống lại một số các quy định đã có trong các văn bản đã ban hành trong khi còn nhiều vấn đề khác cấp thiết hơn cần ưu tiên xây dựng luật và quan trọng hơn là luật có được thực thi và đi vào cuộc sống hay không.
Chúng tôi cho rằng chỉ cần các cơ quan nhà nước đẩy mạnh việc tuyên truyền và thực hiện thật nghiêm túc những quy định đã có trong các văn bản quy phạm pháp luật và trong trường hợp cần thiết có thể điều chỉnh, bổ sung một số quy phạm pháp luật trong các văn bản đã ban hành là đã hoàn toàn có thể kiểm soát tốt hoạt động sản xuất kinh doanh rượu, bia, tạo điều kiện cho ngành ổn định và phát triển, đóng góp ngày càng nhiều cho sự phát triển của đất nước mà không cần phải ban hành một đạo luật mới.
2. VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA LUẬT
Sản phẩm của HABECO
Việc đánh giá tác động của luật là một yêu cầu bắt buộc, quan trọng trong công tác xây dựng pháp luật. Chỉ khi tác động tích cực của luật là cơ bản và những tác động tiêu cực là tối thiểu và có biện pháp giảm thiểu khả thi thì việc đề xuất xây dựng dự án luật đó mới được đưa vào Chương trình và thông qua. Với dự án luật này việc đánh giá tác động còn nhiều hạn chế. Việc đề xuất các chính sách nhằm hạn chế nguồn cung và hạn chế nhu cầu sử dụng rượu, bia sẽ dẫn đến một số tác động đối với người lao động và gia tăng tình trạng buôn lậu, hàng nhái, hàng giả vì:
– Khi giảm nguồn cung và hạn chế nhu cầu sử dụng sẽ dẫn đến dôi dư một số lao động đang làm việc trong ngành sản xuất, kinh doanh rượu, bia, đòi hỏi Nhà nước phải có chính sách phù hợp và phải chi một nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước để giải quyết chế độ đối với số lao động này.
– Nhu cầu sử dụng rượu, bia phù hợp với văn hóa ẩm thực của người Việt Nam và là một thực tế khi dân số tăng và kinh tế ngày càng phát triển. Nếu hạn chế nguồn cung sẽ dẫn đến tình trạng gia tăng vấn nạn nhập lậu, hàng nhái, hàng giả và Nhà nước sẽ phải chi ra một nguồn kinh phí không nhỏ để phòng chống vấn nạn này.
– Nguy hiểm hơn, nếu sản xuất trong nước không đáp ứng nhu cầu và vấn nạn nhập lậu, hàng nhái, hàng giả gia tăng sẽ dẫn đến sản xuất trong nước bị đình trệ, ảnh hưởng lớn tới nguồn thu ngân sách của Nhà nước.
Hơn nữa, tình trạng rượu trôi nổi, rượu không rõ nguồn gốc, xuất xứ là nguyên nhân liên quan đến các vụ ngộ độc, không thu được các loại thuế, phí và vẫn chưa quản lý được mặc dù đã được quy định trong một số văn bản thì cơ quan đề xuất vẫn chưa đưa ra được các biện pháp quyết liệt, khả thi khi xây dựng dự án luật này.
Trong dự thảo Tờ trình của Cơ quan soạn thảocó đặt ra mục tiêu: “Tăng cường quản lý rượu thủ công đặc biệt là nắm bắt được sản lượng và quản lý được chất lượng của ít nhất 50% rượu thủ công (gồm cả kinh doanh và không kinh doanh) để hạn chế tác hại của rượu thủ công”. Vậy còn 50% rượu thủ công nữa thì quản lý ra sao vì đây mới là nguyên nhân chủ yếu gây ra các vụ ngộ độc và ảnh hưởng đến sức khỏe của người tiêu dùng?
3. VỀ TÊN GỌI CỦA LUẬT
Nhiều du khách đến thưởng thức Bia SAGOTA
Như trên đã trình bày, theo báo cáo của Cơ quan soạn thảo, hiện nay trên thế giới chưa có nước nào xây dựng Luật phòng chống tác hại của rượu, bia. Nếu sử dung rượu, bia phù hợp với khuyến cáo của bác sỹ thì bản thân rượu, bia không có hại cho sức khỏe mà ngược lại. Chỉ có lạm dụng rượu, bia mới gây ra tác hại đối với sức khỏe và WHO đã đề ra chiến lược toàn cầu về giảm thiểu tác hại của lạm dụng đồ uống có cồn. Thực tế trong thời gian qua, các vụ ngộ độc liên quan đến sử dụng đồ uống có cồn đều có nguyên nhân là do sử dụng rượu có chứa methanol vượt ngưỡng cho phép mà các loại rượu này là rượu không có nguồn gốc xuất xứ. Chưa có vụ ngộ độc nào có nguyên nhân do sử dụng bia hoặc rượu có nguồn gốc xuất xứ, có nhãn mác, đảm bảo tiêu chuẩn, quy chuẩn về an toàn thực phẩm. Vì vậy, cần làm rõ lý do tại sao lại cứ nhấn mạnh đến tác hại của rượu, bia và đặt mục tiêu phòng, chống tác hại của rượu, bia là lý do tiên quyết khi xây dựng Luật. Việc xác định tên gọi của luật là Luật phòng, chống tác hại của rượu, bia có liên quan chặt chẽ với việc đề xuất lập Quỹ nâng cao sức khỏe cộng đồng mà thực chất là Quỹ phòng, chống tác hại của rượu, bia.
Vì vậy, đề nghị cần trao đổi thật kỹ về tên gọi của luật vì việc này liên quan đến phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của luật. Chúng tôi đề nghị nếu thực sự cần thiết phải xây dựng luật thì cần sửa lại tên gọi của luật là Luật Kiểm soát đồ uống có cồn như thông lệ của một số quốc gia hiện nay đã xây dựng Luật liên quan đến quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh rượu, bia.
4. VỀ VIỆC THÀNH LẬP QUỸ NÂNG CAO SỨC KHỎE CỘNG ĐỒNG
Hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bia, rượu đã phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt với thuế suất 65% từ ngày 01 tháng 01 năm 2018 chứ không phải như thông tin nêu trong một văn bản của cơ quan đề xuất xây dựng luật là: “mức thuế đối với bia hiện là 45% và theo cam kết WTO trong thời gian tới sẽ là 50%”. Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển, Chính phủ đã có chủ trương giảm thiểu khó khăn cho doanh nghiệp. Ngày 16 tháng 5 năm 2016, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 35/NQ-CP về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020, trong đó có nội dung về giảm chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp. Do đó việc quy định doanh nghiệp phải đóng góp thêm 1-2% trên giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt vào Quỹ nâng cao sức khỏe cộng đồng là không phù hợp với Nghị quyết của Chính phủ và sẽ làm cho doanh nghiệp đã khó khăn do phải cạnh tranh khốc liệt trong xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng sẽ lại thêm khó khăn hơn do tác động của Luật nếu được Quốc hội ban hành.
Cần xem lại ý kiến của Cơ quan soạn thảo về nguyên nhân gây ra các bệnh không lây nhiễm: “Trong đó, rượu, bia là một trong các yếu tố nguy cơ chính gây bệnh không lây nhiễm, do đó nguồn ngân sách Nhà nước là nguồn kinh phí chủ yếu cho hoạt động phòng, chống tác hại của rượu, bia trong đó tập trung để tiếp tục duy trì bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan đến các hoạt động phòng, chống tác hại của rượu, bia” bởi vì nguy cơ gây ra các bệnh không lây nhiễm không phải chỉ có rượu, bia mà còn nhiều nguồn khác như môi trường, giao thông,…
Để đề xuất xây dựng một Quỹ nâng cao sức khỏe cộng đồng trên cơ sở hợp nhất với Quỹ phòng, chống tác hại của thuốc lá, cần phải có đánh giá kết quả thực thi Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá và Quỹ Phòng, chống tác hại của thuốc lá. Do đó, việc đề xuất xây dựng Quỹ nâng cao sức khỏe cộng đồng (trên cơ sở hợp nhất với Quỹ Phòng, chống tác hại của thuốc lá) trong dự án Luật Phòng, chống tác hại rượu, bia cũng cần phải được xem xét, đánh giá thật kỹ vì chưa có đánh giá về việc thực hiện Quỹ phòng chống tác hại của thuốc lá. Vấn đề quan trọng nhất là làm thế nào để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển ổn định, bền vững cũng như phát huy được hiệu quả sử dụng Quỹ phục vụ mục đích nâng cao sức khỏe cộng đồng. Vì vậy, đề nghị Quốc hội xem xét tính căn cơ và thuyết phục của việc đề xuất thành lập quỹ, về tổ chức, bộ máy quản lý quỹ. Quỹ phòng, chống tác hại của thuốc lá hiện nay thu được khoảng 600 tỷ đồng (tính trên 2% trên giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt). Nếu hợp nhất với Quỹ Phòng, chống tác hại của rượu, bia thì nguồn thu về Quỹ Nâng cao sức khỏe cộng đồng sẽ là một con số đến hàng ngàn tỷ đồng vì doanh thu từ bia và rượu hiện nay lớn hơn doanh thu từ thuốc lá. Để quản lý và sử dụng một lượng kinh phí lớn như vậy, đòi hỏi phải có tổ chức, bộ máy quản lý Quỹ lớn và điều đó sẽ dẫn đến việc phải tăng thêm biên chế.
Vì vậy, nếu cần thiết phải xây dựng Quỹ nâng cao sức khỏe cộng đồng, đề nghị Quốc hội cho xây dựng một dự án Luật quy định riêng về Quỹ này vì có rất nhiều hoạt động khác liên quan đến sức khỏe cộng đồng như: môi trường, giao thông và các hoạt động khác, chứ không phải chỉ có riêng rượu, bia và thuốc lá và thay vì mỗi khi đề xuất một dự án luật, một số cơ quan soạn thảo lại đề xuất xây dựng một Quỹ như hiện nay./.
LS.THS. NGUYỄN TIẾN VỴ – PHÓ CHỦ TỊCH THƯỜNG TRỰC (HIỆP HỘI BIA – RƯỢU – NƯỚC GIẢI KHÁT VIỆT NAM)