Bài phát biểu của Phó Gs.Ts Nguyễn Văn Việt – Chủ tịch VBA tại Hội nghị “KẾT NỐI CUNG CẦU HÀNG HOÁ SẢN XUẤT TRONG NƯỚC GIỮA DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT VÀ DOANH NGHIỆP PHÂN PHỐI NGÀNH ĐỒ UỐNG VIỆT NAM” tại Hải Phòng, ngày 25. 8. 2017
Trong những năm đầu thời kỳ Đổi mới, trong bối cảnh khó khăn của nền kinh tế, ngành Công nghiệp sản xuất Việt Nam gặp nhiều khó khăn; các loại sản phẩm nhập ngoại, nhập lậu tràn ngập thị trường, đè bẹp các mặt hàng sản xuất trong nước vốn yếu về cả mẫu mã, số lượng và cả chất lượng. Ngành Đồ uống Việt nam cũng không nằm trong vòng ngoại lệ, các loại bia Trung Quốc chất lượng thấp tràn ngập thị trường, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe người tiêu dùng và kinh tế đất nước.
Nhận thức được tình hình lúc bấy giờ, Nhà nước đã có nhiều chính sách cởi mở, giúp đỡ các doanh nghiệp ngành bia nội địa phát triển cả về chất lượng và số lượng. Các sản phẩm nhập lậu, kém chất lượng bị đẩy lùi dần dần và biến mất khỏi thị trường Việt Nam, dành chỗ cho các sản phẩm chất lượng cao sản xuất trong nước. Ngành bia cũng là một trong những ngành hiếm hoi đã đẩy lùi được vấn nạn sản phẩm kém chất lượng, nhập lậu, làm giả ra khỏi thị trường Việt Nam, đáp ứng được nhu cầu của người dân và xuất khẩu một phần ra các nước trong khu vực; trở thành một trong những ngành quan trọng của đất nước, phát triển ổn định, ngay cả trong tình hình kinh tế khó khăn vừa qua.
Tuy nhiên, cũng không nên chỉ nói về khuyến khích, hỗ trợ về sản xuất mà quên đi các chính sách, chương trình của Nhà nước và các Bộ ngành nhằm giúp phát triển, nâng đỡ, đưa các sản phẩm nội địa chất lượng cao ra tới người tiêu dùng Việt Nam.
Một trong nhiều chương trình đó phải kể đến Đề án Phát triển thị trường trong nước gắn với cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” giai đoạn 2014-2020.
Cho đến nay, Hiệp hội được vinh dự là một phần của Đề án, tham gia thực hiện chương trình “Tăng cường hoạt động liên kết trong chuỗi cung ứng hàng Việt Nam bền vững”; với nhiều hoạt động đáng kể đến, trong đó có Hội nghị “Kết nối cung cầu hàng hóa sản xuất trong nước giữa doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp phân phối ngành đồ uống Việt Nam” ngày hôm nay.
Việc kết nối giữa doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp thương mại ngành Đồ uống Việt Nam là hết sức quan trọng. Chương trình nhằm thúc đẩy việc đưa được sản phẩm Bia – Rượu – Nước giải khát của Việt Nam đến người tiêu dùng Việt, thực hiện quyết định 634/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ trong việc phát triển thị trường trong nước gắn với cuộc vân động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam. Thông qua chương trình các doanh nghiệp sản xuất sẽ có cơ hội tăng sản lượng cung ứng nội địa từng bước ổn định để đi đến xuất khẩu.
Mặt khác chương trình thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao nâng cao năng xuất, chất lượng hạ giá thành sản phẩm để kịp cạnh tranh với sản phẩm cùng loại – có lợi cho người tiêu dùng.
Thực trạng hiện nay hầu hết các doanh nghiệp đồ uống (theo biểu) đều có kênh phân phối riêng của mình việc kết nối – liên kết giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với nhà phân phối để cung ứng sản phẩm ra thị trường còn rất hạn chế.
Chương trình này thực hiện nhằm mục đích kết nối các giữa các doanh nghiệp, nhà sản xuất và các doanh nghiệp Thương mại, tạo liên kết bền vững chặt chẽ trong chuỗi cung ứng hàng hóa giữa các vùng kinh tế tại Việt Nam (7 vùng kinh tế) đặc biệt là mở rộng được khu vực thị trường nông thôn, miền núi. Phát triển thị trường gắn chặt với cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam đi vào chiều sâu và hiệu quả trong thời gian tới.
Chương trình thực hiện nhằm đưa các giải pháp từ thực tiễn khắc phục những hạn chế, yếu kém của mối liên kết giữa doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp Thương mại tiêu thụ hàng hóa Việt Nam. Xây dựng hệ thống tiêu thụ logistic.
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH BIA NĂM 2016
Trong năm qua, tuy tình hình kinh tế phục hồi chậm, thời tiết, thiên tai đầu năm tới đầu quý IV còn nhiều khó khăn, gây ảnh hưởng lớn tới nhiều ngành (đặc biệt là ngành sản xuất) nhưng ngành đồ uống tăng trưởng tốt ~10,5%, phần nào là nhờ các nhà máy sản xuất của các tập đoàn lớn mới đi vào hoạt động.
Đến nay cả nước có 117 cơ sở sản xuất bia tại 44/64 tỉnh thành phố trên cả nước. Sản lượng sản xuất của các cơ sở sản xuất tập trung ở các tỉnh thành phố lớn như: Thành phố Hồ Chí Minh: 34,69%; Hà Nội 12,64%; Bình Dương 7,58%; Nghệ An 5,57%; Quảng Ngãi 3,59%; Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ …
Các nhà máy bia được đầu tư thiết bị hiện đại, tự động hóa cao, tương đương với các nước trong khu vực và trên thế giới nên sản phẩm đạt chất lượng, đảm bảo an toàn thực phẩm. Sản lượng bia sản xuất tăng đều, đến năm 2016 ước đạt 3,79 tỷ lít so với năm 2015 tăng 9,3%. 06 tháng đầu năm 2017, ước tính cả ngành sản xuất được 1,4 tỷ lít, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm 2016.
Quy mô và chất lượng các doanh nghiệp ngày càng tăng lên, nhiều doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đầu tư vào các nhà máy với quy mô sản xuất từ 50 đến 100 triệu lít/năm. Các cơ sở sản xuất có quy mô lớn từ 200 đến 400 triệu lít/năm như nhà máy bia Củ chi (Sabeco), Nhà máy bia Mê Linh (Habeco). Nhà máy bia Việt Nam (Heinenken) ở Thành phố Hồ Chí Minh, … cũng đi vào hoạt động ổn định, giúp các tổng công ty, tập đoàn, hãng bia lớn như: Habeco, Sabeco, Heineken, Carlsberg nắm giữ 90% – 95% thị trường bia cả nước.
Theo quy hoạch phát triển ngành Bia-Rượu-Nước giải khát Việt Nam, các Tổng công ty lớn như Sabeco, Habeco đã tiếp nhận các doanh nghiệp bia ở các địa phương, giúp đỡ về công nghệ, đầu tư, nâng cao chất lượng, đảm bảo an toàn thực phẩm, không bị thua lỗ, nộp ngân sách đáng kể cho các địa phương.
Về xu hướng tiêu dùng và cơ cấu sản phẩm, bia lon tiếp tục có tốc độ tăng trưởng cao, giảm dần bia hơi. Sự phát triển của ngành bia đã đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước (giá trị nhập khẩu bia giảm dần từ 16,98 triệu USD năm 2008 đến nay chỉ còn gần 3 triệu USD, xuất khẩu bia tăng từ 17,20 triệu USD lên gần 70 triệu USD). Từ đó tăng thu ngân sách đến tháng 12 năm 2016 tổng nộp ngân sách ngành Bia ước đạt gần 32.000 tỷ (2010 chỉ có khoảng 9.000 tỷ).
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG BIA TẠI VIỆT NAM SO VỚI THẾ GIỚI
Đã có nhiều nguồn thông tin trong dư luận, với các mục đích riêng, cho rằng người Việt Nam đã sử dụng bia đứng đầu thế giới, vượt qua các nước phát triển mà kinh tế lại phát triển ở mức thấp. Các thông tin này cũng được sử dụng bởi nhiều đơn vị, tổ chức để hỗ trợ cho việc khởi xướng kiểm soát, ngăn chặn sự phát triển của ngành.
Trên thực tế, để so sánh tình hình sử dụng bia của người Việt Nam so với thế giới, theo báo cáo của công ty khảo sát thị trường Steiner, mức tiêu thụ bia bình quân theo đầu người tại nước ta ở mức ~34 lít/01 người, đứng thứ 52 thế giới.
Quốc gia | Lượng bia sản xuất chia bình quân đầu người (lít) | |
1 | Cộng hòa Dominica | 5.049,6 |
2 | Ireland | 182,2 |
3 | Cộng hòa Czech | 174,9 |
4 | Bỉ | 165,1 |
5 | Hà Lan | 139,9 |
6 | Đức | 116,4 |
7 | Namibia | 113,6 |
8 | Đan Mạch | 111,7 |
9 | Estonia | 106,4 |
10 | Cộng hoà Áo | 105,5 |
36 | Lào | 50,8 |
40 | Nhật Bản | 44,0 |
46 | Hàn Quốc | 38,7 |
47 | Thái Lan | 38,1 |
49 | Trung Quốc | 37,3 |
52 | Việt Nam | 34,3 |
Nguồn: S.S. Steiner (2013)
Theo báo cáo của Tổ chức Sức khỏe thế giới (WHO, 2014) về tình trạng sử dụng bia, rượu trên thế giới (tính theo độ cồn tuyệt đối và dân số trên 16 tuổi) cũng chỉ xếp Việt Nam ở mức Trung bình thấp (~6,6 lít cồn nguyên chất/01 người/01 năm); tại Châu Á, Việt Nam đứng sau các quốc gia như Hàn Quốc (12,3 lít/người), Lào (7,3 lít/người), Nhật (7,2 lít/người), Thái Lan (7,1 lít/người), và kém xa các nước châu Âu, Bắc Mỹ … Báo cáo được hoàn thiện năm 2014, với khảo sát thực hiện trên hơn 100 quốc gia trên thế giới.
Bản đồ tiêu thụ bia, rượu bình quân đầu người tính theo độ cồn tuyệt đối (WHO, 2014)
Ngay tại Đông Nam Á, mức bình quân sử dụng bia của Việt Nam cũng chỉ đứng thứ 4 tại khu vực, sau Lào (50,8 lít/người), Thái Lan (38,1 lít/người), Cam-pu-chia (36,85 lít/người).
KHÓ KHĂN VÀ THÁCH THỨC
Quy mô thị trường bia Việt Nam tính đến năm 2016 đạt mức 147.200 tỷ đồng. Đây là một tín hiệu đáng mừng nhưng trên thực tế cũng là một thách thức lớn cho các doanh nghiệp nội địa. Thị trường ngày càng phát triển hơn sẽ càng thu hút sự chú ý của các tập đoàn đa quốc gia trên thế giới. Thập kỷ 1990 của thế kỷ trước, khi Việt Nam mới mở cửa, chúng ta được chứng kiến sự thâm nhập, cạnh tranh của các doanh nghiệp, tập đoàn bia lớn như BGI (Pháp), Foster, Heineken, Carlsberg … Sau hơn 20 năm phát triển, thị trường đã dần ổn định với Habeco (18,9% thị phần),Heineken, (31,7%), và Sabeco (43,3%) thống lĩnh tới hơn 93,9% thị trường. Tuy vậy, việc tập đoàn bia lớn nhất thế giới AB-InBev thâm nhập thị trường gần đây với Sapporo hay việc sát nhập SabMiller vào Ab-InBev hay chủ trương thoái hóa vốn Sabeco và Habeco cho thấy một tương lai rất sôi động, đầy cạnh tranh trong thời gian tới.
Không chỉ có sự cạnh tranh quyết liệt trên thị trường, ngành bia còn gặp nhiều khó khăn về chính sách. Theo báo cáo tổng hợp, hiện nay có đến 85 văn bản từ Thông tư của Bộ trưởng đến Luật của Quốc hội có các quy định liên quan đến quản lý sản xuất và kinh doanh rượu, bia: Nghị định 94/2012/NĐ-CP về sản xuất kinh doanh rượu; Quyết định 244/QĐ-TTg; Luật An toàn Thực phẩm; Luật Quảng cáo; Luật Đường bộ; Luật An toàn thực phẩm; Luật Môi trường; Luật Đầu tư …..…
Tuy vậy, có nhiều dự thảo, đề án chính sách mới vẫn được tiếp tục soạn thảo, trình lên Chính phủ và Quốc hội như: Đề án Nâng cao năng lực quảng cáo ngành bia, Đề án Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia … Việc đề xuất các chính sách quản lý nếu không được biên soạn kỹ lưỡng mà chỉ nhằm hạn chế nguồn cung và hạn chế nhu cầu sử dụng rượu, bia có thể dẫn đến nhiều tác động nghiêm trọng đối với người lao động, người tiêu dùng, nguồn thu ngân sách nhà nước và gia tăng tình trạng buôn lậu, hàng nhái, hàng giả.
Ngoài ra, hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bia, rượu đã phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt với thuế suất 60% và sẽ tăng lên 65% từ ngày 01 tháng 01 năm 2018 chứ không như nhiều thông tin dư luận cho rằng mức thuế đối với bia, rượu là rẻ nhất thế giới. Các yếu tố khác như tỷ lệ tồn kho dần tăng cao (nửa đầu năm 2017 tăng 61.6% so với 2016) hay tốc độc tăng trưởng đi xuống (từ ~8-10% của những năm 2009-2013 xuống còn ~6-7% trong những năm gần đây) cũng là dấu hiệu khó khăn cho ngành bia trong tương lai tới.
Hiệp hội Bia-Rượu-Nước giải khát Việt Nam mong muốn các khối doanh nghiệp sản xuất cũng như phân phối cùng có được nhiều hơn các sự đồng thuận về hợp tác cùng phát triển một cách bền vững, cùng đóng góp được nhiều hơn cho nền kinh tế, ngân sách nước nhà.
Đồng thời, với tư cách là cầu nối giữa các doanh nghiệp và giữa các doanh nhiệp và nhà nước, Hiệp hội cũng mong muốn đề nghị chính sách của Nhà nước và các Bộ ngành có liên quan đến ngành Đồ uống nói chung và Bia nói riêng, cần có tính ổn định, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được phát triển bền vững, người tiêu dùng được hưởng lợi và nguồn thu ngân sách được đảm bảo.
Hiệp hội cũng mong muốn được thấy và tham gia nhiều hơn các chương trình tương tự như Đề án Phát triển thị trường trong nước gắn với cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” giai đoạn 2014-2020; góp phần phát triển thị trường bia Việt Nam một cách bền vững và lành mạnh hơn./.